Lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam làm việc xem xét điều chỉnh một số nội dung của TKKT để ra than sớm dự án khai thác hầm lò mỏ than Núi Béo

Ngày 28/10/2015, tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, Lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam đã có buổi làm việc, xem xét điều chỉnh một số nội dung của TKKT dự án khai thác hầm lò mỏ than Núi Béo, để ra than sớm

Dưới sự chủ trì của Phó Tổng Giám Đốc Tập đoàn, ông Khuất Mạnh Thắng, buổi làm việc có sự tham dự của Lãnh đạo các ban, Ban KCM, Ban KCL, Ban Đầu Tư, Ban Tài nguyên, Ban Cơ khí. Về phía Công ty than Núi Béo có ông  Ngô Thế Phiệt, Giám đốc và các cán bộ liên quan, về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin có ông Trần Tú Ba, Viện trưởng, ông Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng và các cán bộ liện quan.

Theo lịch biểu thi công Dự án (TKKT) đã được duyệt, tháng 4/2018 sẽ bắt đầu khai thác lò chợ đầu tiên. Tuy nhiên, do tiến độ đào lò XDCB của dự án bị chậm nên dự kiến đến cuối năm 2019 mới bắt đầu khai thác lò chợ đầu tiên thông qua cặp giếng đứng. Trong khi đó, mỏ lộ thiên Núi Béo sẽ kết thúc khai thác vào năm 2018. Do vậy nếu tiếp tục triển khai thi công XDCB mỏ theo đúng trình tự hiện nay thì trong khoảng thời gian từ cuối năm 2018 đến cuối năm 2019, mỏ Núi Béo sẽ không có diện sản xuất.

Tại buổi làm việc, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã báo cáo một số phương án điều chỉnh TKKT để ra than sớm dự án khai thác hầm lò mỏ than Núi Béo. Khu vực được lựa chọn ra than sớm trong giai đoạn xây dựng cơ bản, các diện khai thác và đào lò chuẩn bị được bố trí đồng thời trên cả 04 khu khai thác của vỉa 11 (vỉa trên cùng) với 06 lò chợ khai thác đồng thời, bao gồm: 01 lò chợ ở khu 1; 02 lò chợ ở khu 2; 01 lò chợ ở khu 3 và 02 lò chợ ở khu 4. Trong các khu khai thác vỉa 11, khu 4 là khu vực có vỉa than phân bố gần bề mặt địa hình nhất (từ mức -140 ÷ -20) nên thuận lợi nhất cho việc mở vỉa tiếp cận để khai thác sớm. Sau khi nghiên cứu tổng thể, thiết kế lựa chọn khu 4 vỉa 11 là khu vực ra than sớm cho dự án. Sơ đồ khai thông, chuẩn bị các vỉa than trong khai trường cơ bản giữ nguyên theo TKKT được duyệt, bao gồm giếng đứng, các mức sân ga, các đường lò vận tải và thông gió chính. Khu vực ra than sớm chỉ điều chỉnh sơ đồ đường lò chuẩn bị cho phù hợp với báo cáo địa chất mới. Một số nội dung trong TKKT được điều chỉnh bao gồm: đào thêm 01 lò ngầm vận tải, thông gió chính, đào thêm 01 lò ngầm vận tải vật liệu, đi lại, thông gió.

Thiết kế điều chỉnh theo tài liệu địa chất mới cho thấy khối lượng mét lò XDCB của dự án thay đổi như sau:

+ Tổng mét lò đá tăng 376m so với TKKT, nguyên nhân tăng chủ yếu do cập nhật các số liệu về địa chất thủy văn để tính lượng nước chảy vào mỏ nên đã thiết kế xây dựng bổ sung hệ thống lò chứa nước ở mức -140 (tăng 437 m), đào mới 02 lò ngầm vận tải và thông gió để khai thác sớm khu 4 vỉa 11. Ngoài ra do cấu tạo địa chất thay đổi nên đoạn lò thượng thông gió trung tâm khu 2 vỉa 11 chuyển từ đào trong than sang đào trong đá dài 138m.

– Tổng mét lò than tăng 226m so với TKKT, nguyên nhân tăng do điều kiện địa chất thay đổi nên cần phải điều chỉnh vị trí và phương vị của các đường lò chuẩn bị các lò chợ khai thác như sau:

+ Điều chỉnh vị trí lò chợ 41101 tránh khu vực vỉa mỏng (có lỗ khoan gặp vỉa dày 1,41m và tiếp giáp với lỗ khoan dày 1,06m);

+ Điều chỉnh vị trí lò chợ 41102 xuống dưới để khai thác tối đa công nghệ phá hỏa đá vách;

+ Điều chỉnh hướng khấu lò chợ 21103 vỉa 11 để tăng chiều dài theo phương tối đa cho lò chợ áp dụng cơ giới hóa khai thác. Cụ thể lò chợ 21103 có chiều dài theo phương là 896m so với TKKT là 370m.

Mặc dù khối lượng đường lò XDCB sau khi điều chỉnh theo tài liệu địa chất mới tăng thêm so với TKKT, nhưng do tăng được chiều dài theo phương của lò chợ áp dụng cơ giới hóa nên sẽ thuận lợi cho quá trình khai thác lò chợ, giảm thời gian chuyển diện và các thay đổi trên là phù hợp với thực trạng của mỏ.

Qua so sánh cho thấy việc điều chỉnh sơ đồ khai thông, chuẩn bị để ra than sớm khu 4 vỉa 11 sẽ cho phép khai thác sớm hơn so với lịch biểu thi công của TKKT điều chỉnh theo thực tế thi công cụ thể, với lò chợ ra than đầu tiên 31103 sẽ sớm hơn 17 tháng so với TKKT và lò chợ 41101 sẽ ra than sớm hơn 24 tháng so với TKKT.

Như vậy tổng thời gian từ khi bắt đầu đến khi kết thúc khai thác lò chợ thuộc khu vực ra than sớm là 2 năm (từ tháng 11/2017 đến tháng 12/2019) với tổng trữ lượng than khai thác được từ 03 lò chợ (41101, 41102 và 41103) là 553.000 tấn, sau khi kết thúc khai thác khu vực ra than sớm sẽ tiến hành khai thác các lò chợ thông qua cặp giếng đứng. Trong trường hợp XDCB của dự án bị chậm do những yếu tố khách quan chưa lường trước được, sẽ tiếp tục cho khai thác lò chợ 31103 có trữ lượng 81.000 tấn thông qua cặp lò ngầm

Các mục khác