Như tin đã đưa, ngày 11/10/2014, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội đã diễn ra Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (10/10/1994 – 10/10/2014). Dưới đây là toàn văn Diễn văn của Chủ tịch HĐTV Lê Minh Chuẩn đọc tại Lễ kỷ niệm.
– Kính thưa: đồng chí Nguyễn Sinh Hùng – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
– Kính thưa: đồng chí Hoàng Trung Hải – Ủy viên TW Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
– Kính thưa: Quý vị đại biểu và các đồng chí,
Lời đầu tiên cho phép tôi thay mặt công nhân, cán bộ viên chức Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam trân trọng cám ơn và nồng nhiệt chào đón các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ; các đồng chí lãnh đạo các Bộ, Ban ngành, đoàn thể Trung ương, lãnh đạo các địa phương; các đồng chí nguyên là lãnh đạo Đảng, Nhà nước; nguyên là cán bộ lão thành Ngành Than – Khoáng sản Việt Nam, các vị đại diện các tổ chức quốc tế, lãnh đạo các doanh nghiệp, các đối tác, bạn hàng trong nước, nước ngoài và các Quý vị đại biểu, các đồng chí đã tới dự Lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba do Đảng và Nhà nước tặng.
– Kính thưa Quý vị đại biểu và các đồng chí,
Hôm nay, chúng ta đang đứng ở mốc thời gian tháng 10 năm 2014 để nhìn lại toàn bộ hành trình 20 năm đã qua và xác định chặng đường tiếp theo của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam. Và vì lẽ đó, vượt ra ngoài khuôn khổ của một Lễ kỷ niệm, chúng tôi xem đây như là một cuộc điểm binh có ý nghĩa đối với tương lai của TKV – Vinacomin.
Trên chặng đường 20 năm, TKV đã trải qua hai giai đoạn chính:
1/ Giai đoạn I từ 1994 – 2005: Ngày 10/10/1994, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 563/TTg thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam – một trong 3 Tổng Công ty (Than – Điện lực – Dầu khí) hoạt động theo mô hình Tổng Công ty 91, dưới sự quản lý, điều hành trực tiếp của Chính phủ với nhiệm vụ chính là sản xuất – kinh doanh than theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước, cung ứng than cho nhu cầu của các ngành kinh tế trong nước; đầu tư xây dựng và vận hành các nhà máy nhiệt điện; sửa chữa, chế tạo cơ khí; sản xuất, cung ứng vật liệu nổ công nghiệp; thương mại và dịch vụ và một số ngành nghề kinh doanh khác. Ngay từ khi mới ra đời năm 1995, TKV đã gặp muôn vàn khó khăn do nạn khai thác – kinh doanh trái phép hoành hành; môi trường vùng mỏ bị tàn phá khốc liệt; các doanh nghiệp Ngành Than lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan, phải cắt giảm sản xuất; giá bán than trong nước thấp hơn giá thành dẫn tới mất cân đối tài chính, công nhân thiếu việc làm, đời sống khó khăn. HĐQT Tổng Công ty đã đề ra hàng loạt giải pháp: tổ chức lại mô hình sản xuất, xóa bỏ cấp trung gian; mở mang nhiều ngành sản xuất – kinh doanh mới; thống nhất quản lý thị trường tiêu thụ than; kết hợp với các chế tài kinh tế – hành chính lập lại trật tự trong khai thác, chế biến, kinh doanh than… Đây cũng là giai đoạn TKV tập trung cao độ đầu tư về kỹ thuật và công nghệ cho các ngành sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác hầm lò.
Ngày 12/5/2001, Tổng Công ty Cơ khí năng lượng và mỏ được sáp nhập vào Than Việt Nam đã làm “hồi sinh” ngành Cơ khí mỏ tạo thêm sức mạnh mới cho ngành cơ khí sửa chữa và cơ khí chế tạo của TKV. Giai đoạn này, HĐQT Tổng Công ty đã xác định “Xây dựng Than Việt Nam trở thành Tập đoàn kinh tế đa ngành trên nền sản xuất than”. Đây cũng chính là chiến lược phát triển bao trùm suốt một thập niên. TKV đã đổi mới mô hình sản xuất theo hướng tinh gọn, giải thể một số công ty khai thác than theo vùng từ đó sức sản xuất được giải phóng; năng suất lao động tăng cao; đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của thợ mỏ thực sự thay đổi. Chỉ cần một phép so sánh nhỏ: Năm 1994, sản lượng than nguyên khai mới chỉ ở mức 7 triệu tấn, 10 năm sau – tức 2005, chỉ số này đã đạt tới 31,3 triệu tấn vượt chỉ tiêu mà quy hoạch phát triển ngành Than đề ra cho năm 2020.
2/ Giai đoạn II từ năm 2005 đến nay: Ngày 08/8/2005, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 198/QĐ-TTg thành lập Tập đoàn Than Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại Tổng Công Ty than Việt Nam và các đơn vị thành viên – Đây cũng là Tập đoàn kinh tế Nhà nước đầu tiên được thành lập. Bốn tháng sau, ngày 26/12/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg thành lập Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam trên cơ sở Tập đoàn Than Việt Nam và Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp với bốn nhiệm vụ chính là: Tập trung đầu tư, huy động các nguồn lực hình thành các nhóm công ty quy mô lớn trong các ngành, các lĩnh vực then chốt, phát triển, nâng cao sức cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế; Giữ vai trò bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành, các lĩnh vực khác trong toàn bộ nền kinh tế; Thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành phần kinh tế khác; Tăng cường quản lý, giám sát có hiệu quả đối với nguồn vốn, tài sản Nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn. Năm 2007, Đảng bộ Công ty mẹ được thành lập kế thừa nhiệm vụ của Ban Cán sự Đảng Than Việt Nam, cùng với Công đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam, Đảng ủy Than Quảng Ninh và Đoàn Thanh niên Than Quảng Ninh tạo nên hệ thống chính trị vững chắc thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị và kế hoạch sản xuất – kinh doanh của Tập đoàn.
Tháng 12/2009, TKV là Tập đoàn kinh tế Nhà nước đầu tiên được 2 tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm quốc tế là Moody’s và Standard & Poor’s đánh giá và xếp hạng ngang bằng hệ số tín nhiệm của Chính phủ Việt Nam.
Ngày 07/2/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 314/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015 là định hướng cơ bản để từng bước cổ phần hóa các đơn vị thành viên, tiến tới cổ phần hóa Công ty mẹ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước theo chủ trương của Đảng và Chính phủ.
Năm 2013, Tập đoàn đã phát hành thành công 5.000 tỷ đồng trái phiếu – Đây là đợt phát hành trái phiếu tiền đồng Việt Nam lớn nhất của doanh nghiệp Nhà nước tính đến thời điểm phát hành, điều đó chứng minh thương hiệu, uy tín của TKV trên thị trường. 5 năm liên tiếp TKV đứng vào Top 10/500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam và Top 10/1.000 doanh nghiệp nộp Thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam do VN Report bình chọn.
– Kính thưa các Quý vị đại biểu và các đồng chí,
Tôi xin báo cáo với Quý vị đại biểu và các đồng chí một số kết quả TKV đã đạt được trong thời gian qua, đó là:
– TKV đã giữ vững vai trò nền tảng và tiếp tục đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành Than theo hướng tăng trưởng chiến lược, đáp ứng nhu cầu than trong nước ngày càng lớn, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế – xã hội.
Nhìn lại giai đoạn đầu, năm 1997 sản lượng than toàn ngành mới chỉ ở mức 11,3 triệu tấn. 10 năm sau (2007) chỉ số này tăng lên 42,2 triệu tấn, vượt mốc 40 triệu tấn so Nghị quyết Đại hội Đảng, năm có sản lượng cao nhất (2011) đạt 45 triệu tấn. So với năm 1995 khi mới thành lập, sản lượng than của TKV đã tăng gấp 7 lần. Sau 20 năm xây dựng và phát triển, Tập đoàn đã sản xuất được 579 triệu tấn than; bóc xúc 2 tỷ 657 triệu m3 đất đá; đào 4.170 km đường lò; Tổng doanh thu từ than từ 1,3 ngàn tỷ đồng năm 1994 lên 55,3 nghìn tỷ đồng năm 2013, gấp 42,5 lần so với thời điểm Than Việt Nam ra đời; vốn chủ sở hữu tăng 37 lần (từ 900 tỷ đồng năm 1995 tăng lên 35.000 tỷ đồng năm 2013); đóng góp ngân sách Nhà nước năm 1995: 120 tỷ đồng tăng lên 16.150 tỷ đồng năm 2011 và bình quân hơn 13.000 tỷ đồng các năm 2012 – 2013; Nguồn ngoại tệ từ than xuất khẩu cũng không ngừng gia tăng, năm cao nhất đạt 1 tỷ 554 triệu USD, đây cũng chính là cơ sở để TKV đầu tư tái mở rộng sản xuất, đặc biệt là hiện đại hóa sản xuất hầm lò, mở ra triển vọng mới đối với ngành khai thác này.
– TKV đã phát triển ngành công nghiệp khai thác khoáng sản theo hướng tăng cường chế biến sâu, tạo ra sức đột phá mạnh mẽ, nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế của Tập đoàn.
Thay vì chủ yếu khai thác, sản xuất và xuất khẩu quặng tinh, hơn nửa thập niên trở lại đây, TKV đã chuyển hướng đầu tư một loạt nhà máy chế biến kim loại màu bao gồm: đồng, chì, kẽm, alumin và đang đầu tư các dự án mới sản xuất gang thép, cromit và các kim loại khác. Năm 2013, các nhà máy của Tổng Công ty Khoáng sản đã sản xuất xấp xỉ 10 nghìn tấn đồng tấm; 8,3 nghìn tấn kẽm thỏi, 420 kg vàng kim loại. Đặc biệt là Tổ hợp bauxite, alumin Tân Rai (Lâm Đồng) năm đầu tiên đi vào hoạt động đã đạt sản lượng trên 200 nghìn tấn, tiêu thụ 165 nghìn tấn, nâng mức doanh thu của ngành công nghiệp khoáng sản năm 2013 lên 4,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,1 lần so với năm 2006. Theo dự kiến, Nhà máy alumin Nhân Cơ (Đắc Nông) công suất 650 nghìn tấn/năm (tương đương với công suất Tổ hợp bauxite Tân Rai) cũng sẽ chính thức hoạt động vào năm 2015 mở ra một triển vọng to lớn cho ngành công nghiệp khai thác bauxite, chế biến Alumin – nhôm của TKV trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên.
– Trên nền công nghiệp than, TKV đã phát triển thành công các lĩnh vực nhiệt điện, thủy điện; vật liệu nổ công nghiệp, cơ khí, vật liệu xây dựng và nhiều lĩnh vực khác.
Năm 2013, tổng công suất các nhà máy nhiệt điện của TKV đã đạt 1.570 MW. Sản lượng điện sản xuất và tiêu thụ đạt 8 tỷ 500 triệu kWh tăng 11,8 lần so với năm 2006, chiếm 7,3% tổng sản lượng điện thương phẩm cả nước với tổng doanh thu đạt 9.447 tỷ đồng. Gía trị sản lượng; các ngành sản xuất vật liệu nổ công nghiệp, cơ khí chế tạo máy; vật liệu xây dựng; dịch vụ thương mại, du lịch, tài chính, bảo hiểm đều có bước tăng trưởng. Trong vòng gần 10 năm trở lại đây, tổng doanh thu của toàn Tập đoàn đã tăng từ 29,1 nghìn tỷ đồng lên 102,8 nghìn tỷ đồng, trong đó doanh thu ngoài than – khoáng sản tăng từ 33,6 – 42,1%, tạo ra bước chuyển dịch lớn trong cơ cấu kinh doanh và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
– TKV đã SX – KD có lãi, bảo toàn, phát triển được vốn Nhà nước, tăng cường năng lực tài chính, đảm bảo an toàn và khả năng thanh toán của Tập đoàn.
Liên tục từ năm 2005 đến 2011, lợi nhuận trước thuế và tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu của TKV luôn đạt mức cao trung bình từ 32 – 42%. Riêng hai năm gần đây, do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế thế giới và trong nước nên chỉ số này có hạ xuống nhưng vẫn đạt lợi nhuận trên 3000 tỷ đồng/năm và tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu vẫn ở mức cho phép. Đặc biệt tổng giá trị tài sản của TKV từ năm 2006 đến 2013 đã tăng 6,5 lần, tương đương 35.227 tỷ đồng và hệ số nợ tính trên vốn chủ sở hữu vẫn nằm trong giới hạn an toàn.
– TKV đã luôn hoàn thành nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước ở mức cao nhất, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện cán cân thương mại và thực hiện nghiêm túc trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng.
Số liệu thống kê cho thấy, nộp ngân sách nhà nước từ năm 1995 trở lại đây đã tăng từ 120 tỷ đồng lên 16.150 tỷ đồng năm 2011. Hai năm 2012 – 2013 do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế nên chỉ số này có thấp hơn nhưng vẫn ở mức từ 13.880 – 12.769 tỷ đồng/năm. TKV cũng là Doanh nghiệp Nhà nước điển hình về các hoạt động xã hội, từ thiện. Trong nhiều năm trở lại đây TKV đã tham gia Chương trình 30A của Chính phủ giúp đỡ 3 huyện nghèo thuộc các tỉnh Hà Giang, Bắc Kạn và Lâm Đồng, ngoài ra tích cực tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện của tỉnh Quảng Ninh và các địa phương khác với kinh phí hàng năm từ 200 – 300 tỷ đồng.
– TKV cũng là doanh nghiệp Nhà nước đầu tiên trong cả nước thành lập được Quỹ môi trường và tham gia tích cực vào công tác bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu lực của công tác an toàn lao động và chăm sóc sức khỏe công nhân.
Ngay sau khi ra đời, được sự đồng ý của các Bộ và Chính phủ: Than Việt Nam đã thiết lập được các quỹ tập trung bao gồm: Quỹ môi trường, Quỹ thăm dò, Quỹ đào tạo, Quỹ chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức năng cho người lao động. Trong đó, Quỹ môi trường với trên 3.000 tỷ đồng được trích từ giá thành than – khoáng sản chuyên dùng cho các dự án đầu tư bảo vệ và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, xử lý chất thải và thực tế TKV đã không ngừng triển khai các dự án nạo vét sông suối, hồ đập, xây kè chắn đất dưới chân bãi thải, mở các tuyến đường vận tải chuyên dùng trong mỏ hoặc tổ chức trồng cây xanh, hoàn nguyên bãi thải và những khu vực đã ngừng khai thác. TKV cũng đã thành lập được Trung tâm cấp cứu mỏ, Trung tâm an toàn và quản lý khí mỏ; Trung tâm y tế lao động để chữa bệnh bụi phổi, các bệnh nghề nghiệp cho công nhân mỏ… Hoạt động sản xuất – kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cũng được triển khai theo hướng an toàn, thân thiện với môi trường.
– Công tác thi đua – khen thưởng, phong trào văn hóa – thể thao của TKV đã phát triển cả chiều rộng lẫn bề sâu, xây dựng văn hóa doanh nghiệp mang bản sắc Thợ mỏ là động lực tinh thần giúp CBCNVC – Người lao động TKV gắn bó với công việc và hoàn thành nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao.
– TKV đã xây dựng và mở rộng quan hệ hợp tác với đối tác, bạn hàng: Cùng với tiến trình hội nhập quốc tế của cả nước, trong 20 năm qua từ Tổng Công ty Than Việt Nam (Vinacoal) đến Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) ngày nay, TKV đã có quan hệ hợp tác và là bạn hàng thân thiết của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các Tập đoàn, Tổng Công ty Nhà nước, các Ngân hàng thương mại, các Doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế của Việt Nam. Vinacomin cũng là bạn hàng, đối tác tin cậy của các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp và định chế tài chính lớn trên thế giới ở ASEAN, ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ…; TKV – Vinacomin có được thành công như hôm nay là nhờ sự hợp tác, giúp đỡ to lớn và hiệu quả của các Bạn.
– Kính thưa Quý vị đại biểu và các đồng chí,
Cùng với nhiệm vụ chính trị quan trọng là sản xuất – kinh doanh, TKV đã coi trọng công tác phát triển nguồn nhân lực, đến thời điểm này TKV có trên 123 ngàn công nhân, cán bộ viên chức, trong đó 19,9% lao động có trình độ đại học, trên đại học; 13,9% có trình độ cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp; lực lượng lao động trẻ dưới 31 tuổi chiếm 62,6%; công nhân có tay nghề bậc cao chiếm 30,5%. Đây thực sự là thế mạnh và yếu tố cơ bản giúp TKV phát triến ổn định trong nhiều năm qua và những năm tiếp theo.
Hệ thống chính trị của TKV tiếp tục được củng cố, hoàn thiện và ngày càng hoạt động có hiệu quả, hiện nay toàn Tập đoàn có 28.756 đảng viên chiếm 23,0% tổng số CBCNVC toàn Ngành, đang sinh hoạt tại Đảng bộ Tập đoàn trực thuộc Đảng bộ Khối doanh nghiệp TW; Đảng bộ Than Quảng Ninh trực thuộc Tỉnh ủy Quảng Ninh và các cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ các tỉnh, thành phố khác trên cả nước.
Công đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức công đoàn – luôn kề vai, sát cánh cùng chuyên môn trong suốt hành trình 20 năm qua.
Đoàn thanh niên Than – Khoáng sản Việt Nam hiện nay có 65 cơ sở Đoàn trực thuộc Đoàn thanh niên Khối doanh nghiệp TW và Tỉnh Đoàn Quảng Ninh với 46.500 đoàn viên thanh niên. Thế hệ trẻ ở các cơ sở Đoàn đã khẳng định vai trò là đội quân xung kích, đi đầu trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và là lực lượng chính thực hiện nhiệm vụ SX-KD của TKV.
Nhìn lại hành trình 20 năm đã qua với rất nhiều gian nan, vất vả thăng trầm nhưng các thế hệ Thợ mỏ TKV hôm nay có thể tự hào về những thành tích và đóng góp của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
– Kính thưa Quý vị đại biểu và các đồng chí,
Vị trí, vai trò và trách nhiệm của TKV đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay hết sức nặng nề. Để thực hiện được nhiệm vụ của mình, CB-CNVC TKV đã rút ra những bài học thực tiễn vẫn còn đang nóng bỏng. Đó là:
– Mô hình tổ chức: từ Tổng Công ty 91 đến mô hình Tập đoàn kinh tế phù hợp với đặc thù của ngành công nghiệp khai khoáng và xu thế phát triển của tương lai: Trong mỗi thời kỳ, TKV đã từng bước hình thành, xây dựng và phát triển các mô hình tổ chức, quản lý SX – KD phù hợp với thực tiễn và huy động một cách hiệu quả các nguồn lực. Đặc biệt ở giai đoạn chuyển sang mô hình Tập đoàn kinh tế, Công ty mẹ – TKV đã nắm quyền chi phối và trở thành trung tâm chỉ huy, điều hành, phối hợp hài hòa các hoạt động SX-KD. Các mỏ than, khoáng sản quy mô lớn được tách khỏi các công ty vùng để nhận sự chi phối trực tiếp từ công ty mẹ. Như vậy TKV đã từng bước xóa bỏ các công ty vùng vốn chỉ phù hợp đối với việc quản lý các mỏ nhỏ, giải phóng năng lực SX và nâng cao tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và sức sáng tạo cho doanh nghiệp.
– Phát triển mô hình kinh doanh đa ngành trên công nghiệp than – khoáng sản: Phương thức này đã tạo ra các chuỗi sản phẩm và giá trị gia tăng hỗ trợ lẫn nhau, kích thích cùng phát triển. Bao gồm: khai khoáng, nhiệt điện, luyện kim, hóa chất, cơ khí, vật liệu xây dựng, xây lắp công trình, dịch vụ thương mại, kỹ thuật, tài chính, y tế, hàng hải, bảo hiểm… Quá trình thực hiện đều có sự kiểm soát chặt chẽ của Tập đoàn. Do vậy, quy mô doanh thu đã tăng nhanh theo cả chiều sâu và chiều rộng. Cơ cấu doanh thu cũng chuyển dịch theo hướng đa ngành đồng thời tránh được rủi ro nếu chỉ đầu tư theo chiều rộng.
– Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế quản lý nội bộ phù hợp với cơ cấu tổ chức, quản lý, kinh doanh của Tập đoàn theo mô hình công ty mẹ – công ty con, tạo ra sự đồng bộ, hài hòa trên phạm vi toàn ngành: Đây là vấn đề cốt lõi trong chiến lược phát triển chung, thống nhất sự điều phối, quản lý tập trung của Tập đoàn từ kế hoạch SX – KD đến tiêu thụ sản phẩm, sử dụng nguồn tài chính phục vụ cho các mục tiêu đầu tư, phát triển trên mọi lĩnh vực nhưng vẫn phát huy được tính chủ động, sáng tạo và bảo đảm hài hòa về lợi ích.
– Không ngừng đổi mới, từng bước ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa vào sản xuất tạo động lực cho mục tiêu nâng cao sản lượng, năng suất lao động và bảo đảm an toàn, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với khai thác than hầm lò: TKV đã thiết lập Quỹ nghiên cứu khoa học hỗ trợ các đề tài nghiên cứu ứng dụng khoa học – công nghệ một cách hiệu quả. Phong trào sáng kiến, cải tiến kỹ thuật thực sự trở thành phong trào thi đua sâu rộng trong toàn Tập đoàn. Hiện tại, các mỏ lộ thiên đã giải quyết thành công việc khai thác xuống sâu dưới mực nước biển và có thể sử dụng hiệu quả các thiết bị và phương tiện công suất lớn như máy xúc thủy lực gầu ngược, ô tô vận tải từ 50 – 100 tấn. Đặc biệt các mỏ hầm lò đã cơ bản hiện đại hóa khâu chống giữ, cơ giới hóa vận tải; nhiều chủng loại thiết bị khai thác tiên tiến được đưa vào ứng dụng, nâng tỷ trọng than hầm lò lên gần 50% so với tổng sản lượng than toàn ngành. Trong các lĩnh vực sản xuất phụ trợ, nhiều sản phẩm cơ khí, hóa chất cũng đã được nghiên cứu, ứng dụng phục vụ trực tiếp cho sản xuất, góp phần đắc lực vào công cuộc cơ giới hóa – hiện đại hóa ngành khai khoáng VN.
– Thực sự chú trọng phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Có cơ chế chính sách thích hợp trong đào tạo, chăm lo đời sống, phát huy cao độ truyền thống “Kỷ luật – Đồng tâm”: Đây chính là nhân tố có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của TKV trên suốt hành trình 20 năm qua. Cùng với chăm lo sức khỏe, cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn cho người lao động, TKV đã không ngừng đầu tư nâng cấp hệ thống các Trường đào tạo nghề, Trường bồi dưỡng cán bộ và thành lập Quỹ đào tạo phục vụ công tác học tập, bồi dưỡng trong nước và gửi đi đào tạo tại nước ngoài. Đặc biệt, TKV đã xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tư duy năng động, quyết đoán, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường; đội ngũ công nhân kỹ thuật đã được chuẩn hóa đào tạo có tay nghề phù hợp và không ngừng được rèn luyện để hình thành tác phong công nghiệp.
– Thiết lập và không ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác với các đối tác, bạn hàng trong nước và quốc tế theo các phương thức song phương và đa phương và mở ra các cơ hội tiếp cận khoa học, kỹ thuật; hợp tác thương mại, đầu tư, tài chính: Đây là một cánh cửa bang giao lớn, TKV đã mở rộng suốt 20 năm qua và cái được lớn nhất là Than Anthracite Việt Nam đã có mặt trên hầu khắp các lục địa. Thông qua con đường này, đội ngũ cán bộ, chuyên gia của TKV được đào tạo, trau dồi kỹ năng ngày càng chuyên nghiệp và đủ khả năng thích ứng với thị trường quốc tế. Thương hiệu và uy tín của TKV – Vinacomin ngày càng được khẳng định.
– Bài học lớn cuối cùng là thiết lập được mối quan hệ mật thiết với các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương, thực hiện trách nhiệm xã hội ngày càng lớn trên tinh thần phát triển hài hòa giữa SX-KD của Tập đoàn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội trên các địa bàn, tranh thủ được sự hỗ trợ, chỉ đạo kịp thời và hiệu quả của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương.
– Kính thưa Quý vị đại biểu và các đồng chí,
Tại diễn đàn này, tôi xin được báo cáo khái quát định hướng phát triển của TKV giai đoạn từ 2015 – 2020 và sau năm 2020 như sau:
Mục tiêu chiến lược của Tập đoàn là xây dựng TKV thực sự trở thành một Tập đoàn kinh tế Nhà nước mạnh, có cơ cấu sản xuất – kinh doanh hợp lý, tập trung vào các lĩnh vực SXKD than – khoáng sản, điện, vật liệu nổ công nghiệp; cơ khí, vật liệu xây dựng; mở rộng hợp tác kinh doanh quốc tế; nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và thúc đẩy các ngành kinh tế đất nước cùng phát triển. Định hướng chiến lược của TKV là ” Xây dựng Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam phát triển Bền vững – Giàu mạnh – Thân thiện – Hài hòa”.
Trong lộ trình phát triển từ 2015 – 2020, sản phẩm chính hàng năm của TKV bao gồm: than thương phẩm 42 triệu tấn; sản lượng điện 12 tỷ 650 kWh; vật liệu nổ công nghiệp 68.280 tấn; nguyên liệu sản xuất thuốc nổ công nghiệp 200.000 tấn; xi măng 03 triệu tấn; alumin 1.230.000 tấn; quặng sắt 920.000 tấn; tinh quặng đồng 90.000 tấn; đồng tấm 30.000 tấn; FeroChrome 20.000 tấn; kẽm thỏi 15.000 tấn; vàng kim loại 1.085 kg.
Những giải pháp cấp thiết trước mắt bao gồm:
1/ Tập trung cao độ cho công tác quản trị tài nguyên – nguồn lực nền tảng cho mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh của TKV. Kiến nghị với Nhà nước kịp thời giải quyết những bất cập về chính sách khoáng sản.
2/ Tăng cường quản trị đầu tư, nâng cao chất lượng lập và quản lý các dự án thiết yếu liên quan tới chiến lược phát triển lâu dài của TKV đồng thời huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội đáp ứng nhu cầu đầu tư trong khi nguồn vốn chủ sở hữu hạn chế. TKV chỉ nắm quyền chỉ huy, điều hành và nắm đầu ra thông qua quyền chủ mỏ.
3/ Tăng cường các công tác quản trị đặc biệt là quản trị chi phí, rủi ro, quản trị kết quả kinh doanh, tiết giảm thấp nhất mọi chi phí để bảo đảm giá thành ổn định, có tính cạnh tranh.
4/ Đi đôi với cải thiện điều kiện làm việc, thực hiện quyết liệt các biện pháp an toàn lao động, tăng cường kỷ luật, xây dựng tác phong công nghiệp với mục tiêu là “Tai nạn bằng không”, tạo tâm lý an tâm, tin tưởng của đội ngũ thợ lò và người lao động.
5/ Tập trung mọi nỗ lực thúc đẩy chế tạo các sản phẩm cơ khí mỏ đáp ứng nhu cầu cơ giới hóa, hiện đại hóa hầm lò.
6/ Tăng cường phát triển nguồn nhân lực thông qua công tác quy chuẩn hóa đào tạo kết hợp với chính sách đãi ngộ, nuôi dưỡng lòng yêu nghề và kích thích năng lực sáng tạo của người lao động.
7/ Đẩy mạnh hơn nữa công tác bảo vệ môi trường, tập trung nghiên cứu, đầu tư tái chế chất thải công nghiệp, đặc biệt là bùn đỏ tại các khu vực sản xuất alumin.
8/ Mở rộng hợp tác với các đối tác, bạn hàng trong nước và nước ngoài; đặc biệt là hợp tác hiện đại hóa kỹ thuật – công nghệ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhập khẩu than và hợp tác đầu tư khai thác khoáng sản tại nước ngoài.
– Kính thưa các Quý vị đại biểu và các đồng chí,
Trong ngày vui đặc biệt này, thay mặt CBCNVC toàn Tập đoàn, tôi xin bày tỏ niềm kính trọng và lòng biết ơn tới sự quan tâm sâu sắc, ân tình của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước; các Bộ, ban ngành Đoàn thể TW; Đảng bộ, chính quyền, các lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương trong cả nước; các đối tác, bạn hàng trong nước và quốc tế đối với sự nghiệp phát triển của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản VN. CBCNVC Tập đoàn ghi nhận và vô cùng biết ơn các thế hệ lãnh đạo; các thế hệ công nhân, cán bộ Ngành Than – Khoáng sản Việt Nam đã đóng góp sức lực, trí tuệ xây dựng nên vị thế, thương hiệu và diện mạo TKV như ngày hôm nay. Mỗi CBCNVC TKV mãi mãi khắc cốt, ghi tâm những người Thợ mỏ đã hy sinh thân mình hoặc bị thương tích do tai nạn, sự cố trong sự nghiệp sản xuất than cho Tổ quốc. Tập thể CBCNVC TKV mong tiếp tục nhận được sự quan tâm giúp đỡ, hợp tác của Qúy vị và các đồng chí để Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tiếp tục phát triển.
Xin kính chúc Quý vị và Gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc. Xin trân trọng cảm ơn./.
Nguồn Vinacomin.vn