* Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật:
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học
Ngay từ khi thành lập, Viện đã có 9 tiến sĩ, hơn 50 cán bộ có trình độ đại học trong tổng số 86 cán bộ của Viện. Số cán bộ này đã có nhiều năm công tác trong Ngành, nắm bắt được những khó khăn và yêu cầu của sản xuất, thực sự đã có những đóng góp to lớn trong việc triển khai ngay các nhiệm vụ chính trị, công tác nghiên cứu, thực hiện các chức năng của Viện, có khả năng đứng mũi chịu sào, đảm đương cương vị của những chủ nhiệm đề tài, dìu dắt và đào tạo những thế hệ cán bộ mới ra trường, góp phần không nhỏ trong việc khẳng định vai trò và vị trí của Viện đối với Ngành. Nhận thức rõ con người là yếu tố quan trọng, quyết định trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ của mình, trong suốt 50 năm qua Ban lãnh đạo Viện đã coi việc đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, trình độ nghiệp vụ quản lý cho đội ngũ cán bộ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và quản lý có đủ năng lực và trình độ, đảm đương được nhiệm vụ chính là nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ.

Cán bộ Viện trong ngày làm việc đầu năm 2025
Từ những năm 1990, Ban lãnh đạo Viện đã lập quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và từ đó đến nay vẫn duy trì thường xuyên, đồng thời có kế hoạch trong việc tiếp nhận cán bộ, cử cán bộ đi đào tạo và bồi dưỡng theo từng giai đoạn. Chủ trương của Viện là đào tạo tập trung và có định hướng, có chế độ khuyến khích hỗ trợ về vật chất và thời gian để cán bộ công nhân viên học tập nâng cao trình độ, sau đào tạo sẽ trở về đóng góp công sức cho sự phát triển chung của Viện.

Đảng ủy Tập đoàn chúc mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Viện Khoa học Công nghệ Mỏ lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2025 – 2030
Trong những năm gần đây, do yêu cầu nhiệm vụ, khối lượng công trình và lĩnh vực hoạt động của Viện ngày càng mở rộng, yêu cầu về đội ngũ cán bộ cũng tăng cao, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ càng được quan tâm, chú trọng cả về số lượng và chất lượng. Hình thức đào tạo cũng được mở rộng, quan tâm kết hợp nhiều hình thức đa dạng, phong phú hơn như gửi cán bộ đi đào tạo trình độ sau đại học tại các trường cả trong và ngoài nước, gửi đi đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, quản lý tại các trường, tại các trung tâm đào tạo và tự tổ chức đào tạo nội bộ; tận dụng tối đa các nguồn kinh phí từ Nhà nước, của Tập đoàn TKV, của Viện và cá nhân.

Hội thảo khoa học tự động hóa điều khiển thiết bị
Số lượng cán bộ tham gia các khóa đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, tin học, chính trị và ngoại ngữ ngày một tăng. Giai đoạn 5 năm trở lại đây có 49 cán bộ của Viện tham gia các chương trình đào tạo sau đại học, trong đó có 14 cán bộ tham gia đào tạo tiến sĩ (03 người đào tạo trong nước và 11 người đào tạo nước ngoài), 35 cán bộ tham gia đào tạo thạc sĩ (30 người đào tạo trong nước và 05 người đào tạo ở nước ngoài), 14 cán bộ theo học các lớp cao cấp và trung cấp chính trị, gần 1.300 lượt cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ. Thời điểm tháng 8/2025, tổng số CBVC của Viện là 278 người, trong đó, 22 tiến sĩ, 69 thạc sĩ, 159 kỹ sư, cử nhân. Hàng năm, do những nỗ lực trong công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ của Viện, số lượng cán bộ có trình độ cao vẫn đang tiếp tục tăng lên và chính lực lượng này là nòng cốt của Viện trong mọi hoạt động KHCN.
Trong việc đào tạo cán bộ chuyên môn, Viện nhận được sự hợp tác nhiệt tình của các trường đại học và các cơ quan nghiên cứu trong, ngoài nước như Trường đại học Mỏ – Địa chất, Trường đại học Bách khoa Hà Nội, các trường Đại học Mỏ Moskva, St. Petersburg, các Viện nghiên cứu về mỏ và than của CHLB Nga, Ba Lan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Australia.
Có thể khẳng định, trong hơn 50 năm qua, Viện đã duy trì và phát triển được một đội ngũ cán bộ nghiên cứu đủ mạnh, có kinh nghiệm, đủ năng lực giải quyết các nhiệm vụ KHCN của Ngành, kịp thời tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy, phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam – Ngô Hoàng Ngân chỉ đạo tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2024 và Hội nghị Đại biểu người lao động của Viện năm 2025
+ Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
Trong thời gian từ năm 1994 đến năm 1996, Viện thực hiện việc xây dựng trụ sở tại số 3 Phan Đình Giót, Phương Liệt, Thanh Xuân, Hà Nội. Tháng 6 năm 1996, Viện di chuyển toàn bộ cơ quan từ Cống Thôn – Yên Viên về trụ sở mới, với cơ sở vật chất tương đối khang trang, bao gồm một nhà 5 tầng, một nhà 3 tầng, một số nhà cấp 4, bố trí các phòng làm việc và các phòng thí nghiệm, nhà ăn, gara ô tô, với tổng diện tích 2892m2 sàn.

Trụ sở chính của Viện tại số 3 Phan Đình Giót, phường Phương Liệt, Thành phố Hà Nội
Từ năm 1998 đến nay, Viện tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, trụ sở làm việc, xây dựng thêm nhà làm việc 2 tầng, cải tạo thêm nhà làm việc 5 tầng, 3 tầng, xây dựng nhà ăn mới khang trang, cải tạo gara ôtô, sân vườn, trồng nhiều cây bóng mát, cây ăn quả và tôn tạo môi trường sạch, đẹp. Cũng vào thời gian này, Viện tiến hành hoàn chỉnh khu sản xuất thực nghiệm tại số 342, Ngô Gia Tự, Long Biên, Hà Nội, đồng thời chuyển hầu hết các phòng thí nghiệm sang khu vực này. Tiếp đó là việc xây dựng cơ sở thực nghiệm tại thị xã Uông Bí, với tổng diện tích trên 5.000 m2. Tại đây có các xưởng chế tạo và sửa chữa thiết bị điện, các phòng thí nghiệm công nghệ than sạch, chế biến sử dụng than, xưởng sản xuất bột quặng manhêtit siêu mịn công suất 15 ngàn tấn/năm phục vụ cho tuyển than. Năm 2005, Viện bắt đầu triển khai việc xây dựng Trung tâm An toàn Mỏ cũng tại Uông Bí trên diện tích đất được cấp 10.000 m2. Với nguồn kinh phí dự toán cho xây dựng là trên 20 tỷ đồng, đây sẽ là một cơ sở nghiên cứu, có các phòng thí nghiệm chuẩn Quốc gia, triển khai những công nghệ hiện đại trong công tác an toàn, thử nghiệm, kiểm định thiết bị điện phòng nổ, vật liệu nổ, thiết bị an toàn và cấp cứu mỏ…

Văn phòng giao dịch tại 342 Ngô Gia Tự, Long Biên, Hà Nội

Trụ sở Trung tâm An toàn mỏ tại phường Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh

Khu sản xuất thử nghiệm tại phường Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
Hàng năm, Viện xây dựng kế hoạch và chi nhiều chục tỷ đồng cho việc mua sắm phương tiện, trang thiết bị, máy móc và hoàn thiện trụ sở của Viện tại số 3 phố Phan Đình Giót, Thanh Xuân – Hà Nội, cùng trụ sở làm việc cho các đơn vị thành viên của Viện, bao gồm trụ sở Trung tâm An toàn Mỏ, Khu sản xuất thử nghiệm tại Uông Bí – Quảng Ninh; trụ sở Công ty CP. Phát triển Công nghệ và Thiết bị Mỏ tại số 342, Ngô Gia Tự, Long Biên – Hà Nội… Đến nay, trụ sở làm việc của Viện tại Phương Liệt đã trở thành một cơ sở nghiên cứu được quy hoạch hoàn chỉnh, khang trang, đẹp đẽ và đồng bộ, có đầy đủ các phòng làm việc, các phòng hội thảo, phòng tiếp khách, có hội trường lớn 300 chỗ ngồi với hệ thống trang âm, điều hòa và ánh sáng, đáp ứng được các điều kiện tốt nhất cho các buổi sinh hoạt học thuật, hội thảo quốc tế, sinh hoạt văn hóa – thể thao. Cùng với các cơ sở làm việc, Viện đặc biệt chú trọng đến việc tăng cường đầu tư các phòng thí nghiệm, thêm nhiều trang thiết bị hiện đại, nhiều phòng thí nghiệm đã được công nhận hợp chuẩn VILAS, LAS Quốc gia và định kỳ được đánh giá lại:

Kiểm định thiết bị điện có vỏ không xuyên nổ
Phòng thí nghiệm hóa môi trường VILAS 070, được cấp Chứng chỉ đạt chuẩn quốc gia theo Quyết định số 140.2013/QĐ- VPCNCL, ngày 9 tháng 5 năm 2013, đồng thời phòng thí nghiệm hiện đã được nâng cấp chất lượng đạt chuẩn quốc gia theo TCVN ISO/IEC 17025:2007. Hàng năm, phòng thí nghiệm VILAS 070 đều thực hiện tốt công tác duy trì và đánh giá xác nhận của Văn phòng Công nhận Chất lượng (BoA) theo quy định. Với sự đầu tư và liên tục cải tiến chất lượng, ngày 23 tháng 3 năm 2015 Phòng thí nghiệm hoá môi trường đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp giấy chứng nhận VIMCERTS 069 (lần đầu) về việc chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường, đồng thời thực hiện tốt công tác duy trì, đánh giá định kỳ, và mở rộng phạm vi các thông số phân tích về chất lượng môi trường đáp ứng xu thế về phân tích, giám sát chất lượng môi trường.

Phòng thí nghiệm hóa môi trường
Phòng thí nghiệm “Kỹ thuật an toàn”, được cấp Chứng chỉ đạt chuẩn Quốc gia lần đầu theo Quyết định số 18.2012/QĐ-VPCNCL, ngày 7 tháng 2 năm 2012. Hàng năm, phòng thí nghiệm đều được đánh giá giám sát và duy trì đến hiện nay với danh mục 42 phép thử ở lĩnh vực điện và 05 phép thử ở lĩnh vực hóa dầu, cho các đối tượng máy biến áp điện lực, cáp điện lực điện áp danh định đến 30kV, máy cắt điện cao áp, chống sét van, hệ thống tiếp địa, tụ điện, máy biến điện áp, máy biến dòng điện, thiết bị đóng cắt và điều khiển hạ áp đến 1000V, rơle trung gian, tín hiệu, rơle so lệch, bảo vệ kỹ thuật số, đồng hồ đo lường, dầu cách điện, sào cách điện, ủng cách điện, găng cách điện, thảm cách điện…

Phòng thí nghiệm Điện – Hóa dầu VILAS 534
Phòng thí nghiệm cơ lý đá LAS-XD 1395, Giấy chứng nhận được cấp theo Quyết định số 198/QĐ-BXD, ngày 23 tháng 4 năm 2014, có công năng thí nghiệm tính chất cơ lý đá với 72 danh mục các phép thử được công nhận đối với các sản phẩm như thử nghiệm cơ lý xi măng; hỗn hợp bê tông và bê tông nặng; thử cốt liệu bê tông và vữa; thử nghiệm cơ lý đất; kiểm tra thép xây dựng; thử nghiệm cơ lý gạch xây; thử nghiệm tại hiện trường.

Phòng thí nghiệm cơ lý đá LAS-XD 1395
Phòng thí nghiệm nghiên cứu điện-tự động hóa, nghiên cứu thiết kế chế tạo, lắp đặt và đưa vào sử dụng các hệ thống thông tin tín hiệu, liên lạc, đàm thoại, giám sát và điều độ tập trung sản xuất ở các đơn vị khai thác, tuyển, chế biến than, khoáng sản, luyện kim; nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và hiệu chuẩn các thiết bị, hệ thống điện – điện tử tự động điều khiển dùng cho ngành khai thác mỏ, chế biến khoáng sản.

Phòng thí nghiệm điện – tự động hoá
Phòng thí nghiệm nghiên cứu công nghệ tuyển khoáng, tiếp nhận mẫu, gia công các mẫu khoáng sản, phân tích thành phần, tính chất của mẫu quặng; thí nghiệm xác định tính khả tuyển của các loại khoáng sản bằng các phương pháp tuyển, trọng lực, tuyển từ, tuyển điện, tuyển nổi, nung từ hóa và phương pháp tuyển đặc biệt khác; thí nghiệm lựa chọn các thong số tối ưu, thí nghiệm tuyển sơ đồ để xác định sơ đồ công nghệ tuyển hợp lý cho từng loại khoáng sản.

Phòng thí nghiệm tuyển khoáng
Phòng thí nghiệm nghiên cứu khả năng tự cháy của than, là phòng thí nghiệm mới được Tập đoàn đầu xây dựng, khánh thành năm 2016. Thiết bị, công nghệ thí nghiệm được chuyển giao từ Viện mỏ Trung ương Ba Lan (Viện GIG) bao gồm 3 mô đun, mô đun 1 là các thiết bị xác định chỉ số tự cháy của than; mô đun 2 là các thiết bị xác định nhiệt ôxy hóa than và mô đun số 3 là hệ thống thiết bị máy sắc ký khí. Từ 2017 đến nay, phòng thí nghiệm đã phân tích, xây dựng được cơ sở dữ liệu về mức độ tự cháy của các vỉa than tại vùng Quảng Ninh và xây dựng các giải pháp phòng ngừa, phát hiện sớm hiện tượng than tự cháy trong quá trình khai thác tại các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh.

Phòng thí nghiệm than tự cháy




















