Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin: Hội nghị sơ kết quý III và triển khai nhiệm vụ quý IV năm 2013

Ngày hôm nay, 11.10.2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin đã tổ chức Hội nghị sơ kết quý III và triển khai nhiệm vụ quý IV năm 2013. Thành phần Hội nghị gồm toàn bộ Ban Lãnh đạo Viện, Giám đốc, phó Giám đốc các đơn vị thành viên và các trưởng, phó các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Viện. Viện trưởng, TS. Nguyễn Anh Tuấn chủ trì Hội nghị.Cùng tham dự Hội nghị có ông Vũ Mạnh Hùng, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam và ông Dương Phi Hùng, Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược của Tập đoàn.

Ngày hôm nay, 11.10.2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin đã tổ chức Hội nghị sơ kết quý III và triển khai nhiệm vụ quý IV năm 2013.

Thành phần Hội nghị gồm toàn bộ Ban Lãnh đạo Viện, Giám đốc, phó Giám đốc các đơn vị thành viên và các trưởng, phó các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Viện. Viện trưởng, TS. Nguyễn Anh Tuấn chủ trì Hội nghị.

Cùng tham dự Hội nghị có ông Vũ Mạnh Hùng, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam và ông Dương Phi Hùng, Trưởng Ban Khoa học công nghệ và Chiến lược của Tập đoàn.

Trong việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, dịch vụ kỹ thuật và sản xuất kinh doanh.

Trong 9 tháng qua, tổng giá trị sản lượng toàn Viện ước đạt 80% kế hoạch, trong đó doanh thu thực hiện đạt 58% kế hoạch đã điều chỉnh. Một số kết quả nổi bật trong các lĩnh vực bao gồm:

* Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học:  

Viện đã đề xuất và triển khai thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp Nhà nước, Bộ và Tập đoàn, đã nghiệm thu hoàn thành 02 đề tài cấp nhà nước, 9 đề tài cấp Bộ. Tiếp tục thực hiện các đề tài, nhiệm vụ KHCN các cấp được giao trong năm và các năm tới. Đăng ký đề xuất hàng loạt các đề tài nghiên cứu các cấp thuộc các lĩnh vực Hầm Lò, Lộ thiên, Xây dựng Mỏ, Địa cơ Mỏ, An toàn Mỏ, …

* Công tác chuyển giao công nghệ, thực hiện dịch vụ khoa học công nghệ:

– Viện đã phối hợp với các Công tác chuyển giao áp dụng khoa học công nghệ vào thực tế sản xuất cũng được Viện phối hợp với các mỏ triển khai đạt nhiều kết quả, như áp dụng giàn siêu nhẹ; áp dụng thử nghiệm hóa chất ngăn ngừa rỗng nóc, lở gương trong quá trình khai thác và đào lò tại Khe Chàm; áp dụng giá khung thuỷ lực di động trong công nghệ khai thác lò chợ trụ hạ trần cho các vỉa than có góc dốc  đến 45 độ tại Mạo Khê; tiếp tục triển khai áp dụng nhiều giải pháp công nghệ để nâng cao tốc độ đào lò, triển khai đào tạo công nghệ chống lò bằng vì neo chất dẻo tại một số mỏ hầm lò, áp dụng kíp nổ vi sai phi điện, thi công đào chống giếng đứng;

– Dự án hợp tác với Công ty than Nam Mẫu áp dụng thử nghiệm khai thác than bằng công nghệ cơ giới hoá, 8 tháng sản xuất đạt sản lượng 172 000 tấn than; dự kiến sản lượng năm 2013 (SX 10 tháng) đạt 220 000 tấn than.

– Trong việc thực hiện các công trình tư vấn, dịch vụ Khoa học kỹ thuật, thuộc lĩnh vực khai thác lộ thiên, như Lập dự án mở rộng khai thác lộ thiên mỏ Núi Béo; Dự án mở rộng mỏ Suối Lại – Công ty than Hòn Gai; Lập thiết kế mở rộng và nâng công suất khu mỏ tuyển đồng Sin Quyền – Lao Cai; Tiếp tục nghiên cứu, chế tạo, lắp đặt các hệ thống giám sát điều độ tập trung, tự động hóa sản xuất cho các nhà máy tuyển, các mỏ than và khoáng sản; nâng cao năng lực, hiệu quả quản lí điều hành và bảo đảm an toàn lao động, từng bước hiện đại hóa các khâu công nghệ trong sản xuất; Sửa chữa, cải tạo hệ thống điều khiển đo lường cho Nhà máy luyện đồng Lào Cai; Thiết kế, chế tạo, lắp đặt Hệ thống điều khiển đo lường và thông tin liên lạc cho Dây chuyền công nghệ Nhà máy tuyển Bauxit Nhân Cơ; Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo bộ nguồn phòng nổ thông minh phục vụ cho các thiết bị điều khiển, đo lường và giám sát hoạt động trong khu vực sản xuất than hầm lò.

– Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo các nhiệm vụ KHCN do Bộ Công Thương và Tập đoàn giao, như: nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý điện năng cho các hộ khai thác than hầm lò; hỗ trợ triển khai một số giải pháp tiết kiệm năng lượng tại các mỏ than khu vực than Quảng Ninh; đánh giá hiệu quả áp dụng mô hình quản lý năng lượng tập trung tại các mỏ than hầm lò nhằm triển khai nhân rộng toàn Tập đoàn; Nghiên cứu xây dựng hệ thống giám sát quản lý năng lượng theo tiêu chuẩn ISO ứng dụng trong mỏ hầm lò và lộ thiên.

– Thực hiện công tác lập bản đồ nham thạch cho các mỏ khai thác lộ thiên và hầm lò; xác định tính chất cơ lí đất đá mỏ; đánh giá chất l­ượng khối đá; xác định quy luật dịch chuyển và biến dạng đất đá; đánh giá điều kiện địa chất thủy văn mỏ; đánh giá và dự báo tr­ượt lở và biến dạng bờ mỏ. Triển khai xác định chỉ tiêu cơ lý đá và thành lập bản đồ nham thạch mỏ than Cao Sơn, mỏ than Hà Tu, mỏ sắt Nà Lũng; quan trắc biến dạng hình học hai giếng nghiêng mức -175 khu Vàng Danh; khoan thăm dò than thuộc đề án khoan thăm dò bổ sung dự án khai thác phần lò giếng mức +0/-175 khu Vàng Danh, công ty than Vàng Danh; đo vẽ bản đồ địa hình với các tỷ lệ khác nhau phục vụ các dự án đầu tư xây dựng công trình.

– Kết quả chủ yếu trong lĩnh vực môi tr­ường là quan trắc môi tr­ường ở hầu hết các đơn vị trong ngành như: Công ty than Uông Bí, Vàng Danh, Nam Mẫu, kho vận Đá Bạc, Dương Huy, Quang Hanh, Đèo Nai, Thống Nhất, Khe Chàm, tuyển than Cửa Ông; lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cho các dự án khai thác quặng vàng gốc Sa Phìn, đổ thải nhà máy luyện đồng Lào Cai..v.v.. các khu vực thuộc dự án cải tạo mở rộng khai thác hầm lò mỏ than Vàng Danh, mỏ Suối Lại – Công ty than Hòn Gai; các dự án đầu tư­ khai thác các mỏ khoáng sản như­ mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ sắt Nà Rụa (Cao Bằng)..v.v.. Các kết quả tư vấn, đánh giá tác động môi tr­ường và các giải pháp đề xuất cải tạo phục hồi môi tr­ường giúp các doanh nghiệp khai thác than khoáng sản nâng cao nhận thức và trách nhiệm, tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi tr­ường khi triển khai dự án đầu t­ư và có kế hoạch về mặt tài chính để phục hồi môi tr­ường khi dự án kết thúc.

* Công tác tư vấn thiết kế đầu tư xây dựng mỏ mới:

Viện tiếp tục triển khai công tác tư vấn, lập thiết kế kĩ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, tổng dự toán các dự án đầu tư khai thác than và khoáng sản, trong đó các dự án trọng điểm là dự án đầu tư xây dựng mỏ hầm lò Khe Chàm II&IV công suất 3,5 triệu tấn/năm; dự án đầu tư xây dựng mỏ hầm lò Núi Béo công suất 2 triệu tấn/năm; dự án đầu tư khai thác mỏ đồng Vi Kẽm (Lào Cai); dự án đầu tư mở rộng và nâng công suất khu mỏ – tuyển đồng Sin Quyền (Lào Cai); dự án đầu tư xây dựng công trình khai thác quặng vàng gốc khu Sa Phìn (Lào Cai); mở rộng nâng công suất mỏ Nam Khe Tam – công ty 86; đầu tư khai thác hầm lò khu mỏ Hồ Thiên công ty 91. Các dự án thực hiện theo đúng tiến độ. 

– Phối hợp với công ty than Núi Béo thực hiện “xây dựng bộ định mức, đơn giá phục vụ cho công trình xây dựng cặp giếng đứng mỏ hầm lò Núi Béo”, đồng thời triển khai xây dựng các bộ định mức, đơn giá phục vụ các công trình khai thác mỏ.

* Công tác an toàn mỏ:

– Đã thực hiện xong đề tài trọng điểm cấp Bộ “Nghiên cứu tích hợp các hệ thống kiểm soát thông gió quan trắc khí mỏ nhằm xây dựng hệ thống giám sát tập trung phục vụ quản lý an toàn khí mỏ các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh đã nghiệm thu Hội đồng cấp nhà nước; đang triển khai  đề tài: Đánh giá tình trạng an toàn đối với các hệ thống vận tải, cơ điện trong các mỏ than hầm lò, nghiên cứu xây dựng các giải pháp quản lý, kỹ thuật – công nghệ nhằm giảm thiểu sự cố tai nạn và phổ biến áp dụng thí điểm.

– Triển khai nhiệm vụ: Nghiên cứu xây dựng nội dung công tác quản lý an toàn trong lĩnh vực khai thác than hầm lò và lộ thiên theo quy định tại Thông tư số 43/2012/TT-BCT ngày 29 tháng 12 năm 2010 của Bộ Công Thuơng, phổ biến áp dụng thí điểm.

– Thực hiện các nhiệm vụ Tập đoàn giao, bao gồm: Bảo trì 30 hệ thống quan trắc khí mỏ tập trung ở các mỏ than hầm lò; Kiểm định, hiệu chuẩn và thử nghiệm các thiết bị an toàn phòng nổ, kiểm định thiết bị cấp cứu mỏ; Khảo sát, lấy mẫu, xây dựng bản đồ xác định độ chứa khí, độ thoát khí mêtan để phân cấp khí mỏ cho các đơn vị sản xuất than hầm lò; Khảo sát, tính toán hoàn thiện hệ thống thông gió mỏ; Tổ chức các lớp đào tạo, hướng dẫn, huấn luyện về cháy nổ khí mê tan và bụi than cho công nhân các mỏ than hầm lò.

* Công nghệ sàng tuyển, chế biến và sử dụng than – khoáng sản:

Từ kết quả tư vấn thiết kế, đào tạo hướng dẫn và chuyển giao công nghệ của Viện, công trình nhà máy tuyển bauxít Tân Rai – Công ty nhôm Lâm Đồng đã hoàn thành và bàn giao chính thức đưa vào vận hành sản xuất.. Năm 2103 Viện tiếp tục thực hiện thiết kế kỹ thuật và thiết kế bản vẽ thi công Công trình Nhà máy tuyển bauxit Nhân Cơ; Tham gia lập TKBVTC và lắp đặt thiết bị phần tuyển khoáng thuộc dự án Khai thác mở rộng nâng công suất mỏ đồng Sin Quyền…

*Công nghệ vật liệu và chế tạo thiết bị:

– Sản xuất cung cấp tại chỗ 20 000 thỏi chất dẻo cho các công trình chống lò bằng vì neo chất dẻo cốt thép.

– Cung cấp 350 tấn sản phẩm chất nhũ tương nền cho các đơn vị khai thác than lộ thiên.

– Tiếp tục chế tạo các thiết bị điện phòng nổ và an toàn tia lửa như bộ cắt điện liên động phòng nổ, bộ phối hợp liên động cắt điện và cấp nguồn nuôi, máy đo khí mêtan, camera phòng nổ, máy điện thoại, máy đàm thoại phóng thanh, hộp đấu cáp, bộ nguồn phòng nổ và các thiết bị điện khác như tủ điện cao thế, tủ điện khởi động mềm, tủ điều khiển hệ thống, thiết bị cảm biến tốc độ băng tải, v.v.. cung cấp lắp đặt cho các đơn vị nhằm thay thế sản phẩm nhập ngoại.

– Nghiên cứu chế tạo đầu đo khí mêtan cho các hệ thống quan trắc khí mỏ tập trung, các thiết bị tự động đo lường điều khiển dây chuyền công nghệ tuyển than và khoáng sản.

– Chế tạo các thiết bị điện tử cho hệ thống kiểm soát tự động giám sát tiêu thụ điện năng tiết kiệm và hiệu quả.

* Hoạt động sản xuất kinh doanh:

– Sản xuất và tiêu thụ 5 032 tấn tinh quặng manhêtit với doanh thu là 15,18 tỷ đồng.

– Thí nghiệm hiệu chỉnh thiết bị điện , doanh thu đạt 25,2 tỷ đồng.

– Sửa chữa lắp đặt thiết bị điện, doanh thu 9 tháng đạt 7,36 tỷ đồng.

Về công tác tổ chức cán bộ và quản lý.

– Sau hơn hai năm chuyển sang hoạt động cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP, Viện đã xây dựng mô hình hoạt động theo cơ chế quản lí, điều hành tập trung nhằm tăng cường năng lực để tham gia thực hiện các chương trình khoa học công nghệ lớn của ngành, điều phối và chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo yêu cầu về tiến độ và chất lượng; xây dựng các quy chế quản lí điều hành mọi mặt như công tác tổ chức, tuyển dụng cán bộ, công tác kế hoạch, tài chính, khoán chi phí và sản phẩm, đào tạo cán bộ, thi đua khen thưởng, kỷ luật, công tác lao động tiền lương, phân phối thu nhập… Mọi hoạt động của Viện được điều hành theo hệ thống quản lý thống nhất từ lãnh đạo Viện đến giám đốc các đơn vị trực thuộc và các trưởng, phó phòng chuyên môn, nghiệp vụ trên cơ sở tăng cường vai trò đôn đốc, kiểm tra giám sát, quản lý điều hành của thủ trưởng các đơn vị. Thực tế hoạt động trong những năm qua, cũng như 9 tháng năm 2013 cho thấy, các quy chế này của Viện đã được khẳng định là đúng đắn, tạo niềm tin tưởng trong mỗi cán bộ viên chức, đoàn kết, toàn tâm, toàn ý đóng góp công sức, trí tuệ vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của Viện.

– Viện đã triển khai nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sở làm việc cũng như đầu tư mua sắm phương tiện, trang thiết bị máy móc thí nghiệm với tổng giá trị thực hiện 16,186 tỷ đồng, đạt 63% kế hoạch Tập đoàn giao;  Tiếp tục triển khai mua sắm trang thiết bị thí nghiệm và duy trì hoạt động thường xuyên của Viện và các đơn vị thành viên với giá trị 3.764 triệu đồng; Dự án đầu tư xây dựng trụ sở làm việc Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin tại Phương Liệt – Thanh Xuân – Hà Nội: Đã được UBND thành phố Hà Nội thông qua Tổng mặt bằng và phương án kiến trúc, đã lấy xong ý kiến cộng đồng dân cư và phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân về các chỉ tiêu quy hoạch. Hiện đang tiếp tục làm việc với Sở Quy hoạch Kiến trúc thành phố Hà Nội và các cơ quan có liên quan để phê duyệt Tổng mặt bằng và phương án kiến trúc để hoàn thiện thiết kế cơ sở và dự án trình Tập đoàn; Triển khai xây dựng Xưởng sản xuất manhêtit công suất 10 000 tấn /năm theo hướng cơ giới hoá các công đoạn sản xuất, tại khu sản xuất thực nghiệm Điền Công – Uông Bí

– Xây dựng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học: Lực lượng lao động của Viện có 485 cán bộ viên chức, trong đó 15 tiến sỹ, 54 thạc sỹ và 294 kỹ sư và cử nhân. Năm 2012, Viện tiếp tục lựa chọn các cán bộ trẻ có năng lực chuyên môn, có tâm huyết với ngành để gửi đi học cao học và nghiên cứu sinh tại các trường đại học trong nước và nước ngoài, bao gồm 6 cán bộ đi nghiên cứu sinh và 18 cán bộ đi học cao học. Hiện nay Viện có 20 cán bộ đang học nghiên cứu sinh (trong đó 03 học tập trong nước và 17 cán bộ học tập tại Liên bang Nga, Trung Quốc) và 27 cán bộ đang học cao học tại các trường Đại học trong nước.

– Viện luôn tăng cường các mối quan hệ, hợp tác với các đối tác nước ngoài để khai thác có hiệu quả các dự án tài trợ, hợp tác nghiên cứu, chế tạo thiết bị, chuyển giao công nghệ, trao đổi thông tin, đào tạo cán bộ. Viện tiếp tục duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác với các nước như Nga, Ucraina, Ba Lan, Séc, Slôvackia, Trung Quốc, Nhật Bản, Australia; sự hợp tác quốc tế đã đem lại hiệu quả cao và hỗ trợ rất lớn cho Viện trong việc tư vấn và chuyển giao công nghệ. Cụ thể các dự án công nghệ tháo khí mêtan; các hệ thống quan trắc khí mỏ; công tác tư vấn thiết kế mỏ Khe Chàm II&IV, mỏ hầm lò Núi Béo.

– “Thông tin khoa học công nghệ mỏ” xuất bản định kỳ hàng tháng, kết hợp với website của Viện quảng bá thương hiệu Viện, giới thiệu các sản phẩm nghiên cứu khoa học, các giải pháp hữu ích, sáng kiến cải tiến kĩ thuật, tạo ra một diễn đàn để phổ biến kiến thức, trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động khoa học công nghệ trong và ngoài Ngành.

Công tác đoàn thể, thi đua, lao động tiền lương và chăm lo đời sống cán bộ, viên chức.

– Công tác Đảng, Công đoàn và các đoàn thể như Nữ công, Hội Cựu chiến binh,  hoạt động sôi nổi, góp phần nâng cao nhận thức, tăng cường khối đoàn kết trong toàn Viện. Trong 9 tháng đã tổ chức, triển khai các phong trào thi đua lao động sản xuất, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, thu hút sự hưởng ứng của toàn thể cán bộ viên chức, tạo ra không khí thi đua sôi nổi rộng khắp, góp phần tăng năng suất và hiệu quả công việc.

– Viện đã chỉ đạo thực hiện tốt công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ viên chức, thực hiện chế độ nghỉ mát hàng năm với mức bình quân 4.500.000 đồng/người; tổ chức 01 đoàn đi thăm quan du lịch Quảng Bình cho cán bộ viên chức đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua; tổ chức cho cán bộ đi nghỉ điều dưỡng, phục hồi sức khỏe theo tiêu chuẩn của Tập đoàn. Tổ chức thăm hỏi, chăm lo những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng vào các ngày lễ tết của đất nước.

– Tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành quản lý tập trung nhằm tăng cường sự phối hợp, chuyên môn hóa và năng lực thực hiện các nhiệm vụ lớn, đồng thời giải quyết việc làm, tiền lương và thu nhập cho cán bộ viên chức Viện. Thông qua giao kế hoạch, nghiệm thu kế hoạch hàng quý, Viện đã quản lý, điều phối và chỉ đạo thực hiện các đề tài, nhiệm vụ đảm bảo theo yêu cầu về chất lượng và tiến độ. Viện giao quỹ lương cho các đơn vị để chủ động trong phân phối đảm bảo công khai, dân chủ theo nguyên tắc gắn với lao động, tiền lương thực sự trở thành động lực thúc đẩy năng suất, chất lượng theo đúng sự chỉ đạo của Tập đoàn về giãn cách tiền lương.Tiền lương bỡnh quõn toàn Viện trong 9 tháng đạt 11 triệu đồng/người/tháng, trong đó bình quân của khối nghiên cứu đạt trên 11 triệu đồng/người/tháng.

– Các đơn vị thành viên của Viện: Công ty PTCN và Thiết bị Mỏ, Trung tâm An toàn Mỏ, đạt doanh thu so với kế hoạch, thu nhập ổn định, có sự chuẩn bị đủ công việc cho quý IV và chuẩn bị kế hoạch cho năm 2014 riêng Trung tâm Vật liệu nổ Công nghiệp năm 2013 gặp khó khăn do thị trường tiêu thụ sản phẩm nhũ tương nền giảm, thị trường thử nghiệm vật liệu nổ công nghiệp giảm, dẫn đến doanh thu và thu nhập giảm so với năm 2012. Tuy nhiên để tháo gỡ khó khăn cho đơn vị Viện đã định hướng phát triển cho đơn vị theo hướng mở rộng ngành nghề, tăng cường phát triển các sản phẩm mới như sản xuất hoá chất chốn lò phục vụ trong xây dựng mỏ, nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới khác. 

Một số tồn tại cần khắc phục được ghi nhận trong Báo cáo sơ kết, trong đó nhấn mạnh việc một số đơn vị chưa thực sự chú trọng việc đề xuất các đề tài, nhiệm vụ KHCN các cấp năm 2014 và các năm tiếp theo.

Hội nghị đã dành phần lớn thời gian cho các ý kiến tham luận của đại diện các đơn vị. Trong các ý kiến tham luận tập trung nêu lên những khó khăn, vướng mắc của đơn vị mình, đồng thời đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn.

Kết luận, Viện trưởng, TS. Nguyễn Anh Tuấn đã đề cập đến  một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho từng đơn vị, đồng thời thống nhất phương hướng, nhiệm vụ của Viện trong quý IV và cả năm 2013, bao gồm:    

1) Tập trung dứt điểm các đề tài nghiên cứu cấp bộ, Tổng cục năng lượng, đề tài cấp Tập đoàn Vinacomin. Có kế hoạch kiểm tra giám sát của các Phó Viện trưởng và P. Quản lý khoa học với các Chủ nhiệm đề tài để nghiệm thu cơ sở kịp thời.

Cụ thể:

– Nghiệm thu tại hội đồng khoa học cấp Nhà nước 01 đề tài thuộc đề án Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng

– Nghiệm thu tại hội đồng khoa học cấp cơ sở 02 đề tài thuộc đề án Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng

– Nghiệm thu tại hội đồng khoa học cấp cơ sở 10 đề tài cấp Bộ giao hàng năm, do Tổng cục Năng lượng quản lý

– Nghiệm thu tại hội đồng khoa học cấp Bộ 02 đề tài thuộc Chương trình quốc gia về an toàn lao động, vệ sinh lao động giai đoạn 2011-2015

– Tháo gỡ các vướng mắc, xin gia hạn một số đề tài, thanh lý hợp đồng thực hiện một số đề tài.

– Hoàn thiện các đề cương, dự toán các đề tài được Tập đoàn giao, ký kết hợp đồng.

2) Tập trung dứt điểm các hợp đồng dịch vụ khoa học kỹ thuật với các đơn vị sản xuất Than và Khoáng sản, đặc biệt các công trình có giá trị gia tăng cao cho Viện.

3) Tập trung giải quyết các công trình trọng điểm:

– Các công trình tư vấn thiết kế xây dựng mỏ hầm lò Núi Béo, mỏ Khe Chàm II – IV; Dự án tuyển bauxit Nhân Cơ, các dự án tháo khí mê tan..v.v.

– Phối hợp với Công ty than Nam Mẫu và Công ty than Vàng Danh  áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới trong khai thác than bằng cơ giới hoá đồng bộ: Tăng sản lượng khai thác tại lò chợ cơ giới hoá Công ty than Nam Mẫu, chuẩn bị diện khai thác chuyển tiếp cho năm 2014. Đối với công ty than vàng Danh thực hiện khẩn trương việc thu hồi, bảo dưỡng sửa chữa các dàn chống và chuẩn bị diện để tiếp tục đưa vào sản xuất.

4) Các đơn vị thành viên triển khai các hoạt động SXKD và dịch vụ kỹ thuật theo kế hoạch Viện giao, tổ chức sản xuất và phối hợp kịp thời với Viện để đảm bảo đạt các chỉ tiêu chung của toàn Viện năm 2013.

5)  Hoàn tất dự án xây dựng Xưởng sản xuất manhêtít công suất 10 000 Tấn/ năm; đầu tư bổ sung trang thiết bị phòng thí nghiệm, văn phòng..v.v..

6)  Đẩy mạnh hoạt động sản xuất các sản phẩm mới, mở rộng phạm vi và năng lực thí nghiệm hiệu chuẩn, sản xuất hoá chất phục vụ khai thác than; nghiên cứu, chế tạo, sản xuất các thiết bị công nghệ phục vụ các dự án chuyển giao công nghệ của Viện.

7) Đề xuất các nhiệm vụ, đề tài cũng như các hợp đồng dịch vụ khoa học công nghệ với các đơn vị sản xuất trong năm 2014.

8) Tăng cường kiểm soát chi phí, giá thành, chi phí thực hiện của các công trình đặc biệt đối với các đơn vị thành viên.

9)  Xây dựng bổ sung các Quy chế quản lý của Viện đảm bảo tuân thủ theo các quy định hiện hành của Nhà nước, Bộ, ngành và của Tập đoàn Vinacomin.

10)  Công tác đào tạo cán bộ: Phù hợp với Quy định của Nhà nước, điều chuyển tạm thời cán bộ về Tập đoàn, đẩy mạnh đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý cho cán bộ Viện, phát huy vai trò cá nhân tham gia các khoá tuyển sinh của Nhà Nước và của các đơn vị tài trợ kinh phí.

11)  Chăm lo đời sống cán bộ viên chức Viện (Tiền lương, thu nhập, điều kiện hoạt động nghiên cứu và sản xuất, các phong trào văn hoá thể thao..v.v..)

12)  Hoàn thành các chỉ tiêu của Hợp đồng phối hợp kinh doanh giữa Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin và Tập đoàn Vinacomin./.

 

Hội thảo “Xem xét vấn đề an toàn và môi trường mỏ than” lần thứ Nhất

Ngày 26.9.2013, Tại Khách sạn Melia, Hà Nội đã diễn ra Hội thảo "Xem xét vấn đề an toàn và môi trường mỏ than" lần thứ Nhất do Tập đoàn Dầu khí và kim loại Quốc gia Nhật Bản (JOGMEC), Trung tâm Năng lượng than Nhật Bản (JCOAL), Công ty CP than Kushiro (KCM) và Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam phối hợp tổ chức.

Ngày 26.9.2013, Tại Khách sạn Melia, Hà Nội đã diễn ra Hội thảo “Xem xét vấn đề an toàn và môi trường mỏ than” lần thứ Nhất do Tập đoàn Dầu khí và kim loại Quốc gia Nhật Bản (JOGMEC), Trung tâm Năng lượng than Nhật Bản (JCOAL), Công ty CP than Kushiro (KCM) và Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam phối hợp tổ chức.

Tham dự Hội thảo, đại diện  Bộ Công Thương, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam có ông Đặng Thanh Hải – PTGĐ cùng đại diện các ban, ngành của Tập đoàn. Về phía Nhật Bản có ông Ikai Yoshikazu, Trưởng Ban Quốc tế JCOAL, ông Matsumoto Hiroyuki Giám đốc điều hành KCM, ông Tsuji Makoto, cán bộ Ban Phát triển than đá JOGMEC. Hội thảo còn có sự tham dự của các tu nghiệp sinh tại Nhật Bản, thuộc Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Việt Bắc – Vinacomin, Tổng Công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc, – Vinacomin, Công ty CP Tư vấn Đầu tư Mỏ và Công nghiệp – Vinacomin, …

Đoàn Viện khoa học Công nghệ Mỏ có TS. Trần Tú Ba – phó Viện trưởng, cùng nhiều cán bộ kỹ thuật các phòng ban liên quan tham gia Hội thảo.

Hội thảo đã nghe tham luận của các chuyên gia Nhật Bản, đi sâu vào các nội dung: Đánh giá một số kết quả trong công tác đào tạo tu nghiệp sinh tại Nhật Bản trong đó có Việt Nam; Thông tin về việc sửa đổi qui định an toàn mỏ của Nhật Bản; Những tác động khác nhau liên quan đến việc phát triển ngành khai thác than; …

Tham luận của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tại Hội thảo đề cập đến kết quả thực hiện “Dự án nâng cao kỹ thuật khai thác và an toàn của các nước sản xuất than” giữa JOGMEC và Vinacomin; Thực trạng công tác quản lí an toàn trong ngành than Khoáng sản Việt Nam; …

Được biết, trong những năm qua, nhiều tổ chức của Nhật Bản đã hợp tác với Viện khoa học Công nghệ Mỏ thực hiện thành công nhiều dự án, như: dự án “Trung tâm quản lý an toàn khí mỏ than Việt Nam”; dự án “Nghiên cứu áp dụng công nghệ an toàn chống bục nước trong các mỏ than hầm lò Việt Nam”; … và gần đây, năm 2012, Viện đã hợp tác với JCOAL nghiên cứu về hiện tượng than tự cháy và đề xuất các giải pháp phòng ngừa phù hợp với điều kiện thực tế trong sản xuất than tại Việt Nam. Trong lĩnh vực đào tạo, nhiều cán bộ nghiên cứu của Viện đã được cử đi học hỏi kinh nghiệm, đào tạo nâng cao chuyên môn tại các trường Đại học chuyên ngành mỏ, các Công ty than của Nhật Bản

Hội thảo là dịp tăng cường giao lưu, trao đổi thông tin nội dung đào tạo và các vấn đề liên quan đến công tác quản lý an toàn mỏ giữa các chuyên gia ngành than Nhật Bản với Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam./

Viện khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty Địa chất môi trường mỏ (CH Séc)

Ngày 19.9.2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã có buổi làm việc với Công ty Địa chất môi trường mỏ, Cộng hoà Séc (GEM s.r.o) nhằm tăng cường hợp tác nghiên cứu các vật liệu dùng trong khai thác mỏ, xây dựng mỏ và phòng chống cháy mỏ, giảm thiểu và ngăn chặn rò rỉ khí độc trong các mỏ than hầm lò.

        Ngày 19.9.2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã có buổi làm việc với Công ty Địa chất môi trường mỏ, Cộng hoà Séc (GEM s.r.o) nhằm tăng cường hợp tác nghiên cứu các vật liệu dùng trong khai thác mỏ, xây dựng mỏ và phòng chống cháy mỏ, giảm thiểu và ngăn chặn rò rỉ khí độc trong các mỏ than hầm lò.

Tại buổi làm việc PGS. TS. Bodi Jan, Giám đốc GEM s.r.o đã giới thiệu thông tin về một số công nghệ vật liệu sử trong việc gia cố, gắn kín và ổn định công trình ngầm như hệ thống phun chống ẩm polyurethan, polyurea, vật liệu vữa bơm hoá học Geopur, Geocream và hệ thống tráng ép supermin.

        Các công nghệ vật liệu trên, đã được Công ty cung cấp và sử rộng rãi trong các công trình khai thác mỏ, địa kỹ thuật và bảo vệ môi trường tại một số nước trên thế giới như Nga, Hungary, Tây Ban Nha….

       Đại diện Viện, TS. Trương Đức Dư đã bày tỏ sự quan tâm và mong muốn tăng cường hợp tác hơn nữa trong việc nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm vật liệu hoá chất do Công ty GEM s.r.o sản xuất tại các mỏ hầm lò Việt Nam.

       Kết quả buổi làm việc làm cơ sở cho sự hợp tác giữa hai bên./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ tổ chức các hoạt động thể thao chào mừng Quốc khánh 2-9

Chào mừng kỷ niệm 68 năm Cách mạng Tháng 8 (19/8/1945 – 19/8/2013) và Quốc khánh 2-9 (2/9/1945 – 2/9/2013), Công đoàn phối hợp với đoàn TNCS Hồ Chí Minh Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin tổ chức giải thi đấu cầu lông, bóng bàn và cờ vua. Giải diễn ra từ ngày 27/8/2013, ngày 29/8/2013 là các trận thi đấu vòng chung kết.

 

Chào mừng kỷ niệm 68 năm Cách mạng Tháng 8 (19/8/1945 – 19/8/2013) và Quốc khánh 2-9 (2/9/1945 – 2/9/2013), Công đoàn phối hợp với đoàn TNCS Hồ Chí Minh Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin tổ chức giải thi đấu cầu lông bóng bàn và cờ vua. Giải diễn ra từ ngày 27/8/2013, ngày 29/8/2013 là các trận thi đấu vòng chung kết.

Giải áp dụng thể thức thi đấu đôi nam trên 35 tuổi, đôi nam, nữ dưới 35 tuổi đối với môn cầu lông; đôi nam trên 40 tuổi và dưới 40 tuổi, đôi nam và đơn nam đối với môn bóng bàn. Trong mỗi môn thi đấu, từng lứa tuổi chia thành các bảng, trong bảng thi đấu vòng tròn một lượt tính điểm để xác định thứ hạng.

Tham dự giải là nhiều tay vợt đến từ các phòng, ban khối văn phòng của Viện. Kết thúc giải đấu, kỳ thủ Trương Tiến Quân, phòng Tư vấn đầu tư đoạt giải nhất môn cờ vua; giải nhất bóng bàn đôi nam trên 35 tuổi thuộc về đôi Nguyễn Thành Nam và Vũ Quốc Vinh (phòng Kế hoạch); giải Nhất bóng bàn đôi nam dưới 35 tuổi thuộc về đôi Phí Ngọc Duy và Phạm Hoàng Giang; giải nhất cầu lông đôi nam trên 35 tuổi  thuộc về các tay vợt Đỗ Văn Hoàng, Trương Tiến Quân và dưới 35 tuổi là đôi  Phù Minh, Tần Hồng Đức .

Dưới đây là một số hình ảnh ghi lại trong ngày chung kết.

Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải làm việc với Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam

Ngày 15-8, tại Quảng Ninh, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải cùng các đồng chí: Phạm Minh Chính, Ủy viên T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; Nguyễn Văn Đọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; lãnh đạo một số bộ, ngành của Trung ương và tỉnh đã có buổi làm việc với Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) để tháo gỡ những khó khăn, kiểm tra việc thực hiện chiến lược sản xuất, kinh doanh than của Vinacomin.

 

Ngày 15-8, tại Quảng Ninh, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải cùng các đồng chí: Phạm Minh Chính, Ủy viên T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; Nguyễn Văn Đọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; lãnh đạo một số bộ, ngành của Trung ương và tỉnh đã có buổi làm việc với Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) để tháo gỡ những khó khăn, kiểm tra việc thực hiện chiến lược sản xuất, kinh doanh than của Vinacomin.

Trong buổi làm việc, Lãnh đạo Tập đoàn đã báo cáo với Phó Thủ tướng về tình hình sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn. Theo báo cáo, nhờ bám sát tình hình thực tế, tập trung chỉ đạo triển khai quyết liệt các giải pháp tháo gỡ khó khăn nên 7 tháng đầu năm 2013, sản lượng than nguyên khai của tập đoàn đạt 25,7 triệu tấn, than tiêu thụ 23,7 triệu tấn, bằng 55% kế hoạch năm, doanh thu 54.000 tỷ đồng, đạt 52% kế hoạch năm. Tuy nhiên từ ngày 7/7/2013, khi Bộ Tài chính ban thành thông tư điều chỉnh thuế xuất khẩu than tăng từ 10% lên 13% đã khiến cho việc tiêu thụ than của Tập đoàn gặp rất nhiều khó khăn. Sản lượng than xuất khẩu tháng 7 chỉ đạt 237.000 tấn, 15 ngày đầu của tháng 8 mới chỉ xuất khẩu được 80.000 tấn. Theo lãnh đạo Tập đoàn, nếu vẫn giữ nguyên thuế xuất khẩu than ở mức 13% thì kế hoạch tiêu thụ 39 triệu tấn than trong cả năm 2013 gần như không thể thực hiện, doanh thu dự kiến chỉ đạt 53.000 tỷ đồng, bằng 83% kế hoạch năm, ảnh hưởng rất nhiều đến việc làm, thu nhập của người lao động.

Từ thực trạng trên, Vinacomin đề nghị Phó Thủ tướng xem xét giải quyết điều chỉnh chính sách thuế, phí đối với tài nguyên khoáng sản theo hướng khuyến khích khai thác tận thu tối đa tài nguyên. Trước mắt đề nghị sớm điều chỉnh thuế xuất khẩu than về mức 10% để tiêu thụ được than; đẩy nhanh việc cấp phép thăm dò, cấp phép khai thác cho các dự án Vinacomin đã trình; cho phép tiếp tục duy trì Nhà máy tuyển than Nam Cầu Trắng đến năm 2018; duy trì cảng Nam Cầu Trắng làm cảng xuất than (ngoài việc làm cảng hàng hoá tổng hợp) với hình thức chỉ làm máng rót, băng tải kín đưa than từ kho mỏ Núi Béo ra xuất tiêu thụ; cho phép Vinacomin được tham gia đấu thầu (rộng rãi, hạn chế); được áp dụng chính sách ưu đãi cho các dự án nhà ở công nhân…

Chia sẻ với những khó khăn và ghi nhận sự nỗ lực vượt khó của Vinacomin trong thời gian qua, lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngành Than đối với việc phát triển KT-XH, ANQP của tỉnh. Vì vậy, tỉnh Quảng Ninh đã luôn đồng hành, kịp thời hỗ trợ, cùng đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương tháo gỡ những khó khăn trong SXKD của Tập đoàn. Tỉnh Quảng Ninh và ngành Than đang phối hợp triển khai thực hiện nhiều nội dung công việc như: Chuyển dần từ khai thác than lộ thiên sang khai thác than hầm lò; đầu tư lớn cho các dự án cải tạo, bảo vệ môi trường do hoạt động khai thác than gây ra; tạo quỹ đất xây dựng nhà ở cho công nhân; mặt bằng sản xuất, bãi thải mỏ; phối hợp thực hiện tốt việc lập lại trật tự trong sản xuất và kinh doanh, vận chuyển than. Đồng thời, tỉnh Quảng Ninh cũng đề nghị Phó Thủ tướng xem xét, nhanh chóng giải quyết các đề xuất, kiến nghị của Vinacomin; nghiên cứu quy hoạch phát triển nhà máy nhiệt điện; xây dựng nhà máy sử dụng các sản phẩm từ bôxit trên địa bàn tỉnh nhằm thực hiện hiệu quả nguồn năng lượng than.

Kết luận buổi làm việc, Phó Thủ tướng đã ghi nhận những kết quả mà Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đạt được trong thời gian qua. Phó Thủ tướng đánh giá cao sự phối hợp giữa tỉnh Quảng Ninh với ngành Than trong những năm qua, đặc biệt là các giải pháp cải thiện môi trường do ảnh hưởng của việc khai thác than.

Phó Thủ tướng nhấn mạnh: Quảng Ninh là một tỉnh có nhiều lợi thế về du lịch, vì vậy nếu không bảo đảm vấn đề môi trường thì việc phát triển ngành này sẽ xung đột ngành khác và không chuyển dịch được cơ cấu kinh tế và phát triển bền vững. Phó thủ tướng chỉ đạo trong thời gian tới ngành Than cần tiếp tục phối hợp với tỉnh để giải quyết các vấn đề về môi trường của ngành Than trong hơn 100 năm qua.

Đối với nhiệm vụ trong thời gian tới, Phó Thủ tướng yêu cầu Vinacomin tiếp tục điều hành linh hoạt có giải pháp tiêu thụ hiệu quả, giải quyết tồn kho, tiết kiệm chi phí sản xuất, đầu tư công nghệ mới cơ giới hoá vào trong khai thác nhằm giảm bớt rủi ro, có dự báo chính xác để khai thác xuống sâu theo Quy hoạch 60 của Chính phủ. Vinacomin cần chú trọng hơn nữa công tác đảm bảo an toàn, thu nhập, việc làm cho người lao động.

Đối với các đề xuất của Vinacomin, Phó Thủ tướng sẽ yêu cầu các bộ, ngành liên quan nhanh chóng xem xét giải quyết.

Trước đó, trong chuyến công tác, Phó  Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã đến thăm và làm việc với Công ty Kho vận Đá Bạc, Công ty Than Nam Mẫu và Công ty CP Than Núi Béo.

Tại Công ty Kho vận Đá Bạc, Phó Thủ tướng đã thăm cảng Điền Công, một cảng tiêu thụ than lớn ở Uông Bí do Công ty quản lý, vận hành. Trong buổi làm việc, Phó Thủ tướng  đánh giá cao kết quả SXKD trong 6 tháng đầu năm 2013 của Công ty, với việc hoàn thành tiêu thụ 4,2 triệu tấn than, đạt 50% kế hoạch năm.

Tại Công ty Than Nam Mẫu, Phó Thủ tướng biểu dương những kết quả mà Công ty đạt được trong thời gian qua, nhất là việc áp dụng công nghệ cơ giới hoá đồng bộ trong khai thác than hầm lò. Thông qua đó, giúp Công ty hoàn thành kế hoạch sản xuất 6 tháng đầu năm 2013 với hơn 1 triệu tấn than nguyên khai, đạt 50% kế hoạch năm, doanh thu 1.300 tỷ đồng. Việc áp dụng cơ giới hoá trong khai thác than hầm lò cũng là cơ sở quan trọng để Công ty Than Nam Mẫu triển khai thành công dự án đầu tư khai thác lò giếng công suất 2,5 triệu tấn than/năm. Dự án này đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản, dự kiến năm 2014 sẽ kết thúc công tác đào lò xây dựng cơ bản. Phó Thủ tướng yêu cầu Công ty Than Nam Mẫu tiếp tục đầu tư cơ giới hoá nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất, đảm bảo an toàn cho người lao động.

Trong thời gian làm việc ở Nam Mẫu, Phó Thủ tướng đã thăm hệ thống mororay vận chuyển người và thiết bị vào lò, trung tâm quan trắc, kiểm soát khí mỏ, gặp gỡ, thăm hỏi một số cán bộ, công nhân, thăm khu giặt sấy quần áo cho thợ lò.

Tại mỏ Núi Béo, Phó Thủ tướng đã kiểm tra tiến độ thi công cặp giếng đứng thuộc Dự án khai thác than hầm lò công suất 2 triệu tấn/năm của mỏ.

Trên mặt bằng SCN mỏ hầm lò Núi Béo

Tại đây, Phó Thủ tướng đã phát biểu chỉ đạo chủ đầu tư của dự án, Công ty CP than Núi Béo, nhà thầu thi công, Công ty xây dựng mỏ hầm lò 1 phối hợp chặt chẽ với cơ quan tư vấn, thiết kế, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thi công, để đưa dự án vào hoạt động đúng tiến độ đề ra./.

                                                                          Nguồn: baoquangninh

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty Cổ phần Thiết bị Công nghệ MIPEC

Ngày 1.8.2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty Cổ phần Thiết bị Công nghệ MIPEC nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp thiết bị mỏ. MIPEC là đại diện của nhà sản xuất thiết bị khai khoáng hàng đầu của Nga KOPEYSK MACHINE-BUILDING PLANT  và Công ty EICKHOFF chuyên sản xuất thiết bị khấu than của Đức.

Ngày 1.8.2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty Cổ phần Thiết bị Công nghệ MIPEC nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp thiết bị mỏ. MIPEC là đại diện của nhà sản xuất thiết bị khai khoáng hàng đầu của Nga KOPEYSK MACHINE-BUILDING PLANT  và Công ty EICKHOFF chuyên sản xuất thiết bị khấu than của Đức.

Tại buổi làm việc, ông Dmitry Kipelov, chuyên gia của hãng đã giới thiệu một số thiết bị cơ giới hoá cho khai thác hầm lò. Hai bên đã thảo luận một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực cơ giới hóa khai thác than cũng như những khó khăn về điều kiện địa chất khi áp dụng tại Việt Nam.
ThS. Lưu Văn Thực – phó Viện trưởng, đại diện Viện Khoa học Công nghệ Mỏ -Vinacomin đã bày tỏ sự quan tâm đến các thiết bị và công nghệ do Công ty Cổ phần Thiết bị Công nghệ MIPEC làm đại diện, cũng như công tác bảo dưỡng, bảo trì thiết bị trong quá trình hoạt động./.

Đoàn CBVC có thành tích xuất sắc năm 2012 Viện Khoa học Công nghệ Mỏ tham quan, khảo sát Quảng Bình

 Đã thành truyền thống, trong những năm gần đây, hàng năm, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ -Vinacomin  tổ chức cho các CBVC có thành tích xuất sắc của năm trước đi tham quan, nghỉ mát trong và ngoài nước. Chuyến đi năm nay được tổ chức vào đúng dịp kỷ niệm ngày Thương binh – Liệt sỹ 27/7, đoàn  đã đến làm lễ dâng hương tại Nghĩa trang Trường Sơn, Thành cổ Quảng Trị, Ngã ba Đồng Lộc. Bên cạnh đó, đoàn cũng đã dành thời gian 1 ngày tham quan, khảo sát động Thiên Đường, một trong chuỗi hang động vùng Phong Nha nổi tiếng của Quảng Bình.

Đã thành truyền thống, trong những năm gần đây, hàng năm, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ -Vinacomin  tổ chức cho các CBVC có thành tích xuất sắc của năm trước đi tham quan, nghỉ mát trong và ngoài nước. Chuyến đi năm nay được tổ chức vào đúng dịp kỷ niệm ngày Thương binh – Liệt sỹ 27/7, đoàn  đã đến làm lễ dâng hương tại Nghĩa trang Trường Sơn, Thành cổ Quảng Trị, Ngã ba Đồng Lộc. Bên cạnh đó, đoàn cũng đã dành thời gian 1 ngày tham quan, khảo sát động Thiên Đường, một trong chuỗi hang động vùng Phong Nha nổi tiếng của Quảng Bình.

 

Đoàn tham quan khảo sát của Viện với sự tham gia của trên 70 CBVC có thành tích xuất sắc năm 2012, do TS. Trương Đức Dư, phó Viện trưởng, Chủ tịch Công đoàn Viện làm trưởng đoàn. Cùng tham gia, giao lưu với đoàn còn có nguyên phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, PGS. TS. Phùng Mạnh Đắc và phu nhân, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, TS. Trần Trọng Kiên.

Chuyến đi là dịp để mỗi thành viên tỏ lòng thành kính, tri ân các anh hùng, liệt sỹ, các 0 Thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc, những người đã đi vào huyền thoại, đã đóng góp xương máu cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Chuyến đi cũng là dịp khám phá những địa danh lịch sử, thưởng thức những danh lam thắng cảnh của Tổ quốc. Thông qua chuyến đi, mỗi người đều cảm thấy tự hào là người Việt Nam, tăng thêm tình yêu, niềm tự hào về quê hương, đất nước, đồng thời cũng là dịp củng cố thêm tình đoàn kết trong tập thể CBVC của Viện, là động lực cho mỗi người tiếp tục phấn đấu đạt được những thành tích cao hơn nữa trong thời gian tới, đóng góp vào sự phát triển của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin./.

Hội thảo khoa học “Quản trị tài nguyên khoáng sản Việt Nam, thực trạng và giải pháp”

Sáng ngày hôm nay, 25/7/2013, tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình, Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học "Quản trị tài nguyên khoáng sản Việt Nam, thực trạng và giải pháp".      Tham dự Hội thảo là các đại biểu đến từ các Chi hội Khoa học và Công nghệ Mỏ ở mọi miền đất nước, Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Luyện Kim, …

      Sáng ngày hôm nay, 25/7/2013, tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình, Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học “Quản trị tài nguyên khoáng sản Việt Nam, thực trạng và giải pháp”.
Tham dự Hội thảo là các đại biểu đến từ các Chi hội Khoa học và Công nghệ Mỏ ở mọi miền đất nước, Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Luyện Kim, …

 Đoàn chủ tịch điều hành Hộị nghị là TS. Trần Xuân Hòa Chủ tịch Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam, GS.TS. Trần Xuân Hà, Phó chủ tịch, Ban thư ký là GS.TS. Võ Trọng Hùng và TS. Kiều Kim Trúc.

  Với chủ đề “Quản trị tài nguyên khoáng sản Việt Nam, thực trạng và giải pháp”, trong Tuyển tập báo cáo của Hội thảo đã tập hợp được 20 báo cáo tham luận, trong đó nhiều tham luận đã được trình bày trong Hội thảo. Các tham luận này đã đề cập đến nhiều góc độ trong quản trị tài nguyên khoáng sản, tù những tham luận chung, mang tính phổ quát, như “Minh bạch hóa trong nghành khai khoáng trên thế giới và khả năng áp dụng vào Việt Nam”; “Vai trò của cộng đồng với việc minh bạch hóa trong khai thác khoáng sản”; “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị tài nguyên khoáng sản tại Việt Nam”; … Đến những tham luận về những giải pháp cụ thể của doanh nghiệp, như “Công tác quản trị tài nguyên tại Công ty CP than Vàng Danh”; “Quản trị tài nguyên khoáng sản trong khai thác mỏ lộ thiên dưới góc độ tiết kiệm”; “Các giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả quản trị tài nguyên khoáng sản tại Công ty CP than Núi Béo-Vinacomin”; “Áp dụng công nghệ tiên tiến trong đào lò và khai thác nhằm quản trị tài nguyên khoáng sản hướng tới minh bạch, hiệu quả kinh tế-xã hội, môi trường tại một số mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh”; … Bên cạnh đó còn có bài, về “Công tác bảo vệ môi trường  ở Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam”; “Nghiên cứu quản trị tài nguyên than phục vụ công nghệ khí hóa than ngầm ở Việt Nam”
Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin vinh dự là một trong 3 nhà tài trợ chính của Hội thảo. Đoàn cán bộ của Viện tham gia Hội thảo do TS. Trương Đức Dư làm trưởng đoàn, với nhiều cán bộ, nghiên cứu viên, đóng góp nhiều tham luận trong Hội thảo và được trình bày trước hội nghị, như bản tham luận của TS. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Đào Hồng Quảng “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp kỹ thuật công nghệ khai thác hầm lò nhằm huy động tối đa tài nguyên trữ lượng than vào sản xuất”.

Vinacomin: Sơ kết quý II, 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ quý III, 6 tháng cuối năm 2013

Sáng ngày 10/7/2013, tại Hạ Long, Vinacomin đã tổ chức Hội nghị sơ kết quý II, 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ quý III, 6 tháng cuối năm 2013. Đồng chí Trần Xuân Hoà, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn và đồng chí Lê Minh Chuẩn, Tổng Giám đốc Tập đoàn chủ trì Hội nghị.

       Sáng ngày 10/7/2013, tại Hạ Long, Vinacomin đã tổ chức Hội nghị sơ kết quý II, 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ quý III, 6 tháng cuối năm 2013. Đồng chí Trần Xuân Hoà, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn và đồng chí Lê Minh Chuẩn, Tổng Giám đốc Tập đoàn chủ trì Hội nghị.

Tham dự Hội nghị có các đồng chí trong Ban Thường vụ Đảng ủy, Hội đồng Thành viên, Ban Tổng giám đốc Tập đoàn, Công đoàn TKV, Đoàn TNCS HCM Tập đoàn, Hội CCB Tập đoàn, lãnh đạo các Ban/Văn phòng Tập đoàn, lãnh đạo các đơn vị thuộc Tập đoàn.

Doanh thu của toàn Tập đoàn từ đầu năm đến nay ước đạt 48.785 tỷ đồng, đạt 47% kế hoạch năm và bằng 105% so với cùng kỳ 2012. Trong 6 tháng đầu năm, Vinacomin khai thác được 22,9 triệu tấn than nguyên khai; tiêu thụ đạt 21,47 triệu tấn; bóc xúc 112,8 triệu m3 đất đá; đào 175.500m lò; sản xuất 82.851 tấn alumin; sản xuất và cung ứng 84.600 tấn vật liệu nổ công nghiệp; 5,1 tỷ KWh điện…

Để duy trì ổn định sản xuất, Vinacomin tập trung siết chặt kỷ luật điều hành sản xuất, tiêu thụ; chuẩn bị tốt chân hàng, nhất là các chủng loại than chất lượng cao, điều hành giải phóng tàu nhanh, giảm chi phí chuyển tải. Kiểm soát tốt chất lượng than giao, đặc biệt là độ ẩm trong mùa mưa; tiếp tục thực hiện các giải pháp tăng cường quản lý than đầu nguồn; đẩy mạnh đào lò XDCB và đảm bảo tiến độ xây dựng các dự án mỏ than. Đẩy mạnh công tác kiểm tra an toàn, phòng chống mưa bão. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chi phí, giá thành của các đơn vị, đặc biệt là các đơn vị giá thành cao; đồng thời, tích cực bám sát, làm việc với Bộ Tài chính, Bộ Công thương để giải quyết điều chỉnh giá bán than cho điện, các vướng mắc về chính sách thuế, phí.

Cũng tại Hội nghị, Tập đoàn đã tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm giới thiệu nhân sự cho chức danh thành viên HĐTV Tập đoàn. Kết quả, đồng chí Phạm Văn Mật – PTGĐ Tập đoàn đạt được tín nhiệm cao, với số phiếu tín nhiệm là 108/158.

                                                                                                       (Nguồn: Vinacvomin)

Công ty TNHH 1TV PT CN và TB Mỏ: Sơ kết quý II, 6 tháng đầu năm, phương hướng nhiệm vụ quý III/2013

Ngày 5/7/2013, tại khu thực nghiệm Uông Bí, Công ty TNHH 1TV Phát triển Công nghệ và Thiết bị Mỏ đã tổ chức Hội nghị sơ kết công tác quý II, 6 tháng đầu năm, triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh quý III và 6 tháng cuối năm 2013

     Ngày 5/7/2013, tại khu thực nghiệm Uông Bí, Công ty TNHH 1TV Phát triển Công nghệ và Thiết bị Mỏ đã tổ chức Hội nghị sơ kết công tác quý II, 6 tháng đầu năm, triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh quý III và 6 tháng cuối năm 2013

Tại Hội nghị, Ông Nguyễn Hữu Teo – Chủ tịch kiêm Giám đốc Công ty đã trình bày Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh quý II và 6 tháng đầu năm 2013, triển khai nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh quý III và 6 tháng cuối năm 2013. Theo Báo cáo, trong 6 tháng đầu năm, Công ty đã thực hiện giá trị SXKD 42,9 tỷ đồng (đạt 74,9% kế hoạch năm) thu nhập bình quân đạt 9,6 triệu đồng/người/tháng. Xác định 6 tháng cuối năm 2013 kinh tế ngành còn tiếp tục khó khăn, Công ty đã đưa ra kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cụ thể để hiện hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đề ra cho năm 2013.

Tại Hội nghị, các đơn vị cũng đã trình bày tham luận đóng góp ý kiến cho Báo cáo chung và đề xuất ý kiến trong việc thực hiện kế hoạch quý III của đơn vị mình.

     Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Phó Viện tru­o­ngr Hoàng Minh Hùng đã biểu dương Công ty đã nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ SXKD trong 6 tháng đầu năm 2013. Sau gần một năm chuyển đổi mô hình SXKD sang công ty TNHH 1TV, Công ty đã phát huy hiệu quả trong công tác chuyển giao công nghệ, khẳng định sự phát triển bền vững của Công ty. Trong 6 tháng cuối năm, Công ty cần phải có các giải pháp linh hoạt và quyết tâm, nỗ lực phấn đấu cao để hoàn thành kế hoạch SXKD của năm 2013. Ngoài ra, Công ty cần tập trung duy trì sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mở rộng sản xuất và kinh doanh trong những lĩnh vực truyền thống như sản xuất manhêtít, TNHC, trung, đại tu thiết bị điện nhằm sản xuất ổn định, nâng cao thu nhập cho người lao động.

Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Viện, ông Nguyễn Hữu Teo khẳng định sẽ xây dựng Chương trình hành động để thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong Báo cáo đã đề ra và đề nghị lãnh đạo các đơn vị trong Công ty quán triệt các nội dung tại Hội nghị sơ kết, nhất là các giải pháp mà Hội nghị đã thống nhất thông qua để tập trung lãnh đạo đơn vị hoàn thành kế hoạch quý III và 6 tháng cuối năm, góp phần cùng Công ty hoàn thành thắng lợi kế hoạch năm 2013.

Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam: Giao ban trực tuyến điều hành sản xuất quý III

 Sáng 3/7, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã tổ chức Hội nghị giao ban trực tuyến điều hành sản xuất kinh doanh tháng 7 và quý III năm 2013, với 6 điểm cầu. Tổng giám đốc Tập đoàn Lê Minh Chuẩn chủ trì Hội nghị.

Sáng 3/7, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã tổ chức Hội nghị giao ban trực tuyến điều hành sản xuất kinh doanh tháng 7 và quý III năm 2013, với 6 điểm cầu. Tổng giám đốc Tập đoàn Lê Minh Chuẩn chủ trì Hội nghị.

Hội nghị lần này Tập đoàn triệu tập thêm thành phần là các Trưởng ban Tuyên giáo Đảng uỷ Tập đoàn, Đảng uỷ Than Quảng Ninh, Công đoàn TKV và Bí thư Đoàn thanh niên than Quảng Ninh với mục tiêu tăng cường thông tin, phối hợp tuyên truyền kịp thời những chủ trương cũng như những chỉ đạo, định hướng và các giải pháp điều hành của Tập đoàn đến với CNCN ở các đơn vị trực thuộc.

Theo báo cáo tổng hợp của Ban Kế Hoạch tại Hội nghị, trong 6 tháng đầu năm 2013, khối lượng đất bóc đã thực hiện là 112,8 triệu m3, đào lò là 175,5 ngàn mét. Các chỉ tiêu sản xuất khác cơ bản đảm bảo kế hoạch. Cụ thể, về than nguyên khai, toàn Tập đoàn đã sản xuất được 22,9 triệu tấn; than tiêu thụ ước đạt 21,47 triệu tấn; các sản phẩm khoáng sản chủ yếu đạt từ 43% đến 55% kế hoạch, đã sản xuất thử được trên 82.851 ngàn tấn Alumin; sản xuất điện đạt 5,1 tỷ KWh, bằng 60%  kế hoạch; sản xuất 33.400 tấn thuốc nổ là, đạt 58% kế hoạch; cung ứng và tiêu thụ 51.200 tấn thuốc nổ, đạt 53% kế hoạch; sản xuất cơ khí và lĩnh vực khác đạt từ 30 – 45% kế hoạch. Trong 6 tháng đầu năm, doanh thu toàn Tập đoàn ước đạt 48.785 tỷ đồng, đạt 47% kế hoạch năm và bằng 105% so với cùng kỳ 2012.

Đánh giá chung, 6 tháng đầu năm, năng lực sản xuất của các đơn vị trong Tập đoàn ổn định. Các đơn vị đã chủ động, tập trung điều hành sản xuất phù hợp với tiêu thụ, theo đúng các quyết định điều hành sản xuất – tiêu thụ quý I và Quý II. Việc thực hiện các chỉ tiêu công nghệ, như cơ cấu than khai thác theo công nghệ, độ tro than nguyên khai; tỉ lệ khối lượng lò đá chống bằng vì chống thép/vì neo; khối lượng lò chống, xén, tỉ lệ tổn thất than khai thác, … đảm bảo theo kế hoạch, phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Tập đoàn là tối ưu hóa các chỉ tiêu kỹ thuật công nghệ. Tình hình tiêu thụ vẫn tiếp tục khó khăn, trong nước, chỉ có than cấp cho  điện là vượt kế hoạch, còn lại các hộ tiêu thụ khác khác đều giảm khối lượng; xuất khẩu cũng gặp nhiều khó khăn do tiêu thụ than thế giới và Trung Quốc vẫn giảm sút, chưa phục hồi. Tập đoàn đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác điều hành sản xuất phù hợp với tình hình thị trường tiêu thụ, tăng cường quản lý kỹ thuật, quản lý đầu tư, quản trị chi phí, quản lý sản phẩm và phối hợp kinh doanh nhằm mục tiêu giảm giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chung toàn Tập đoàn.

Sau khi nghe ý kiến của các đơn vị, các ban chuyên môn tại Hội nghị và phân tích khó khăn, thuận lợi đặt ra trong 6 tháng cuối năm 2013, Tổng giám đốc Tập đoàn Lê Minh Chuẩn nhấn mạnh, nhiệm vụ của Vinacomin trong thời gian tới là hết sức nặng nề. Do đó, trong 6 tháng cuối năm, Tổng Giám đốc yêu cầu các đơn vị trong toàn Tập đoàn siết chặt kỷ luật điều hành sản xuất, tiêu thụ; tăng cường vai trò của người đứng đầu đơn vị, phối hợp với hệ thống chính trị tuyên truyền để người lao động hiểu và chia sẻ khó khăn với Tập đoàn; chuẩn bị tốt chân hàng, nhất là các chủng loại than chất lượng cao có nhu cầu tăng trong tháng 7, tăng cường điều hành giải phóng tàu nhanh, giảm chi phí chuyển tải; kiểm soát tốt chất lượng than giao, đặc biệt là độ ẩm trong mùa mưa, khắc phục các tồn tại trong giám sát chất lượng thời gian qua; tiếp tục thực hiện các giải pháp tăng cường quản lý than đầu nguồn; đẩy mạnh đào lò XDCB và đảm bảo tiến độ các dự án xây dựng mỏ than.

Cùng với đó, Tập đoàn và các đơn vị cần tích cực tìm kiếm khách hàng, đẩy mạnh tiêu thụ khoáng sản; duy trì hợp lý công suất phát các nhà máy điện Na Dương, Cao Ngạn, Sơn Động, Cẩm phả, Mạo khê; tăng cường phối hợp sửa chữa tại các đơn vị và sử dụng các sản phẩm cơ khí do các đơn vị trong Tập đoàn sản xuất; đẩy mạnh công tác kiểm tra an toàn, phòng chống mưa bão, lưu ý việc kiểm tra, vận hành các hệ thống trạm điện, hầm bơm, trạm phát điện dự phòng. Thực hiện nghiêm các quy định về phòng ngừa bục nước hầm lò; thường xuyên kiểm tra các bãi thải để dự báo và phát hiện các nguy cơ sạt lở bãi thải giáp khu dân cư, đặc biệt quan tâm các vị trí xung yếu; có biện pháp khắc phục, giảm thiểu các vụ TNLĐ đang có chiều hướng gia tăng; tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chi phí, giá thành của các đơn vị, đặc biệt là các đơn vị giá thành cao; đồng thời, tích cực bám sát, làm việc với Bộ Tài chính, Bộ Công thương để giải quyết điều chỉnh giá bán than cho điện, các vướng mắc về chính sách thuế, phí./.

                                                                                                           Nguồn: Vinacomin.vn

Thư chúc mừng Nhân Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam

Thư chúc mừng

Nhân Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam

Các Cộng tác viên và Bạn đọc kính mến!

Nhân dịp ngày 21.6, thay mặt những người làm báo của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, chúng tôi xin gửi lời chào trân trọng đến các cộng tác viên và bạn đọc “Thông tin khoa học công nghệ mỏ” và website http://www.imsat.vn/.

Trong năm qua, với sự quan tâm chỉ đạo của Nhà nước, Bộ Công Thương, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam và sự hợp tác nhiệt tình, có hiệu quả của các đơn vị trong và ngoài Ngành Than – Khoáng sản, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã đạt được nhiều kết quả trong nghiên cứu triển khai áp dụng các giải pháp khoa học công nghệ và đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển của Ngành. Những kết quả đó có phần đóng góp không nhỏ của “Thông tin khoa học công nghệ mỏ” và website http://www.imsat.vn/.

Thông qua các tác giả, các cộng tác viên, những kết quả nghiên cứu, triển khai áp dụng khoa học công nghệ nói trên được đăng tải sinh động và kịp thời trên “Thông tin khoa học công nghệ mỏ” và website www.imsat.vn. Từ những bài nghiên cứu trao đổi ở tầm vĩ mô “Đổi mới công nghệ khai thác, tuyển, chế biến nhằm phát triển bền vững ngành Than – Khoáng sản”“Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ nhằm từng bước hiện đại hóa ngành công nghiệp khai khoáng ở Viết Nam”, … đến những bài phản ánh kết quả nghiên cứu triển khai áp dụng những giải pháp kỹ thuật công nghệ cụ thể trong dây chuyền công nghệ mỏ. Có thể kể đến, trong lĩnh vực khai thác hầm lò là các bài về những giải pháp khai thác hỗn hợp hầm lò – lộ thiên, khai thác dưới các công trình cần bảo vệ trên bề mặt, ở các mỏ Núi Béo, Khe Chàm II-IV, cánh Nam Mạo Khê; nổ mìn trong lỗ khoan dài trong khai thác vỉa dày, dốc; điều khiển đá vách bằng dải than lưu trong khai thác vỉa mỏng, dốc ở Quang Hanh;  lựa chọn áp dụng các giải pháp kỹ thuật công nghệ khai thác phù hợp với các điều kiện địa chất khác nhau của các mỏ; lựa chọn công nghệ khai thác hợp lý mỏ vàng Sa Phìn; kết quả nghiên cứu chế tạo và áp dụng kíp nổ vi sai phi điện an toàn hầm lò trong khai thác vỉa dốc và đào lò, áp dụng thử nghiệm kíp vi sai phi điện an toàn trong công nghệ khai thác lò dọc vỉa phân tầng ở mỏ Đồng Vông; thử nghiệm tường cách ly nhân tạo bằng hóa chất, sử dụng hóa chất gia cường khối đá tại Khe Chàm; … Lĩnh vực khai thác lộ thiên là các bài viết về các công trình nghiên cứu lựa chọn các giải pháp kỹ thuật công nghệ nổ mìn, xúc bốc, vận tải, ổn định bờ mỏ, quy hoạch đổ thải, nổ mìn tầng cao ở Cao Sơn; … Về lĩnh vực công nghệ sàng, tuyển, chế biến than, khoáng sản, bên cạnh những bài viết về các công trình tuyển than, là các bài về công trình tư vấn, thiết kế xây dựng Nhà máy tuyển bauxít Tân Rai; … Lĩnh vực an toàn mỏ với các bài viết về công trình nghiên cứu tích hợp các hệ thống kiểm soát thông gió, quan trắc khí mỏ; đưa hệ thống tháo khí mêtan tại mỏ Khe Chàm vào vận hành; … Lĩnh vực Cơ điện, tự động hóa mỏ, với các bài viết về hàng loạt các công trình chế tạo, lắp đặt các hệ thống điều khiển sản xuất cho các nhà máy tuyển, các mỏ than và khoáng sản; các công trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị mỏ, dàn chống, giá khung, cột và cụm xi lanh thủy lực của dàn chống tự hành; … Lĩnh vực tư vấn, thiết kế xây dựng mỏ, với các bài viết về dự án khai thác hầm lò mỏ than Núi Béo, mỏ hầm lò Khe Chàm II&IV, mỏ đồng Vi Kẽm, mỏ Vàng Sa Phìn, …Lĩnh vực Điều kiện tự nhiên, Môi trường với các bài viết về các công trình lập bản đồ nham thạch, dự báo trượt lở và biến dạng bờ mỏ, …; tư vấn đánh giá tác động môi trường, cải tạo phục hồi môi trường, … và nhiều bài viết về các công trình ở nhiều lĩnh vực khác.

Bên cạnh đó, trên “Thông tin khoa học công nghệ mỏ” và website http://www.imsat.vn/ còn đăng tải những tin, bài giới thiệu về Viện, tiềm lực khoa học, giới thiệu các đơn vị thành viên, các lĩnh vực nghiên cứu, các sản phẩm KHCN mới của Viện; phản ánh các sự kiện, các mặt hoạt động của Viện, của Tập đoàn; cung cấp cho bạn đọc những thông tin, tư liệu về khoa học công nghệ mỏ trên thế giới; giới thiệu những văn bản pháp luật mới có liên quan.  

Những kết quả mà “Thông tin khoa học công nghệ mỏ” và website http://www.imsat.vn/ đạt được trong thời gian qua có sự đóng góp rất lớn của các tác giả, các cộng tác viên và bạn đọc. Chúng tôi xin chân thành cám ơn.

Nhân Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam năm 2013, chúc các cộng tác viên, bạn đọc sức khỏe, luôn tràn đầy tâm huyết với báo chí, tiếp tục ủng hộ “Thông tin khoa học công nghệ mỏ” và website http://www.imsat.vn/ hoàn thành nhiệm vụ của mình./.

                                                                                                         Tổng Biên tập

                                                                                                   TS. Nguyễn Anh Tuấn 

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ tổ chức vui Tết Thiếu nhi 1/6/2013

Ngày 01/6/2013, tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, Ban Chấp hành Công đoàn phối hợp với Đoàn Thanh niên tổ chức Vui Tết thiếu nhi 1.6.2013 cho các cháu là con cán bộ, viên chức của Viện

Ngày 01/6/2013, tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, Ban Chấp hành Công đoàn phối hợp với Đoàn Thanh niên tổ chức Vui Tết thiếu nhi 1.6.2013  cho các cháu là con cán bộ, viên chức của Viện

Thay mặt Ban lãnh đạo Viện, đồng chí Lê Hồng Thắng đã tuyên dương và trao phần thưởng cho 85 cháu, trong đó có 8 cháu đạt danh hiệu cáccuộc thi cấp quận, thành phố, 64 cháu đạt học sinh giỏi và 13 cháu đạt học sinh tiến tiến trong năm học 2012-2013. Cùng ngày, BCH Công đoàn, Đoàn thanh niên các đơn vị thành viên Công ty Phát triển Công nghệ Thiết bị Mỏ, Trung tâm Vật liệu Nổ Công nghiệp, Trung tâm An toàn Mỏ cũng đã trao phần thương cho các chất đạt thành tích suất sắc năm học 2012-2013.

Trong chương trình vui tết, các cháu được xem chương trình : “Cười tặng bé” tại Cung văn hoá thiếu nhi Hà Nội. Với những tiếng reo hò, những tràng cười nghiêng ngả kéo dài theo từng tiết mục không những của các khán giả nhí, mà cả các bậc phụ huynh.

Đây là hoạt đông thường niên, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Lãnh đạo Viện, Ban chấp hành Công đoàn đối với những thế hệ con em, tạo tinh thần yên tâm công tác cho cán bộ viên chức trong Viện./.

 

Hội thảo luận án tiến sỹ

Ngày 30.5.2013, tại Trường Đại học Mỏ Đại chất đã diễn ra Hội thảo chuyên ngành khai thác hầm lò về đề tài luận án tiến sỹ kỹ thuật "Nghiên cứu ảnh hưởng dịch động của đất đá do khai thác hầm lò để xác định mối quan hệ giữa khai thác hầm lò và lộ thiên trong khu vực khoáng sàng Mông Dương – Khe Chàm" của Nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Sỹ. GS.TS. Trần Văn Thanh và TS. Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ hướng dẫn thực hiện đề tài luận án.

 

Ngày 30.5.2013, tại Trường Đại học Mỏ Đại chất đã diễn ra Hội thảo chuyên ngành khai thác hầm lò về đề tài luận án tiến sỹ kỹ thuật “Nghiên cứu ảnh hưởng dịch động của đất đá do khai thác hầm lò để xác định mối quan hệ giữa khai thác hầm lò và lộ thiên trong khu vực khoáng sàng Mông Dương – Khe Chàm” của Nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Sỹ. GS.TS. Trần Văn Thanh và TS. Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ hướng dẫn thực hiện đề tài luận án.

 

Với phương pháp nghiên cứu kết hợp cả 3 hướng, từ nghiên cứu lý thuyết, tổng hợp, phân tích các kết quả quan trắc thực địa ở những công trình nghiên cứu trước đó đến nghiên cứu trên mô hình vật liệu tương đương, đề tài đã lựa chọn phương pháp tính toán các thông số dịch động phù hợp cho khoáng sàng Khe Chàm – Mông Dương và áp dụng cho cả vùng than Quảng Ninh, đồng thời xây dựng được mối quan hệ giữa các tham số dịch động gắn liền với các điều kiện cụ thể của khu vực nghiên cứu. Từ những kết quả nghiên cứu, đề tài đề xuất giải pháp quy hoạch khai thác hỗn hợp hầm lò – lộ thiên vùng Quảng Ninh.

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hoàn thiện về lý thuyết phương pháp tính toán xác định các thông số dịch động do ảnh hưởng của khai thác hầm lò tới bề mặt địa hình vùng Quảng Ninh làm cơ sở trong việc tổ chức khai thác hỗn hợp hầm lò – lộ thiên, đảm bảo an toàn.

Luận án đang được tiếp tục chỉnh sửa hoàn thiện để bảo vệ trước Hội đồng cơ sở./.

Hợp tác đào tạo về công nghệ khai thác than giữa Vinacomin với KCM và JCOAL

Sáng 28/5, tại Văn phòng Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, lễ ký hợp tác đào tạo thuộc dự án "Nâng cao năng lực sản xuất than và kỹ thuật đảm bảo an toàn năm 2013" đã diễn ra giữa Vinacomin và Công ty Cổ phần than Kushiro Nhật Bản (KCM), Trung tâm Năng lượng than Nhật Bản (JCOAL). Tham dự buổi ký kết, có ông Đặng Thanh Hải – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn, ông Murakami Yoichi – Ủy viên thường vụ KCM, ông Ikai Yoishiichi – Trưởng ban Hợp tác Quốc tế của JCOAL và ông Kenji Ishiguro – Trưởng bộ phận kỹ thuật than của JOGMEC.

    Sáng 28/5, tại Văn phòng Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, lễ ký hợp tác đào tạo thuộc dự án “Nâng cao năng lực sản xuất than và kỹ thuật đảm bảo an toàn năm 2013” đã diễn ra giữa Vinacomin và Công ty Cổ phần than Kushiro Nhật Bản (KCM), Trung tâm Năng lượng than Nhật Bản (JCOAL). Tham dự buổi ký kết, có ông Đặng Thanh Hải – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn, ông Murakami Yoichi – Ủy viên thường vụ KCM, ông Ikai Yoishiichi – Trưởng ban Hợp tác Quốc tế của JCOAL và ông Kenji Ishiguro – Trưởng bộ phận kỹ thuật than của JOGMEC.

   Hợp tác đào tạo giữa Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam với KCM và JCOAL nhằm phối hợp đào tạo, trao đổi kinh nghiệm nâng cao trình độ kỹ thuật trong sản xuất than, đáp ứng yêu cầu điều kiện khai thác than ngày càng xuống sâu. Theo đó, KCM sẽ cử các chuyên gia sang Việt Nam trực tiếp tham gia đào tạo về lý thuyết, hướng dẫn kỹ thuật cho cán bộ, công nhân tại Trung tâm Cấp cứu mỏ, một số mỏ và trường dạy nghề của Vinacomin. 

Lễ ký kết hợp tác đào tạo giữa KCM với Công ty than Nam Mẫu và Xí nghiệp than Khe Tam – Công ty than Hạ Long cũng được thực hiện cùng ngày. Đối với Công ty than Nam Mẫu, các kỹ sư của KCM sẽ đào tạo lý thuyết và hướng dẫn thực tế về kỹ thuật khai thác, kỹ thuật đào lò đá, kỹ thuật cơ điện và kỹ thuật khoan hầm lò. Còn đối với Xí nghiệp than Khe Tam, KCM sẽ hướng dẫn các nội dung: kỹ thuật duy trì đường lò, kỹ thuật đào lò, kỹ thuật cơ điện và kỹ thuật khoan hầm lò.

Thời gian thực hiện của dự án từ ngày 28/5/2013 đến ngày 28/2/2014. Lễ ký hợp tác đào tạo giữa Vinacomin với KCM và JCOAL càng khẳng định mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Nhật Bản, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất than tại Việt Nam./.
Nguồn: Vinacomin

Công đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam: Tập huấn nghiệp vụ tuyên giáo Công đoàn năm 2013

Từ ngày 20/5 đến ngày 22/5/2013, tại Trường Quản trị Kinh doanh – Vinacomin, Công đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam tổ chức tập huấn nghiệp vụ công tác Tuyên giáo Công đoàn năm 2013. Đối tượng tập huấn là các đồng chí Ban Tuyên giáo – Nữ công Công đoàn TKV, các đồng chí phụ trách công tác Tuyên giáo Công đoàn thuộc 82 đơn vị Tổng công ty, Công ty, Công đoàn cơ sở trực thuộc Công đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam.

Từ ngày 20/5 đến ngày 22/5/2013, tại Trường Quản trị Kinh doanh – Vinacomin, Công đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam tổ chức tập huấn nghiệp vụ công tác Tuyên giáo Công đoàn năm 2013. Đối tượng tập huấn là các đồng chí Ban Tuyên giáo – Nữ công Công đoàn TKV, các đồng chí phụ trách công tác Tuyên giáo Công đoàn thuộc 82 đơn vị Tổng công ty, Công ty, Công đoàn cơ sở trực thuộc Công đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam.

Trong đợt tập huấn, các học viên được truyền đạt các nội dung, về vai trò, chức năng, nhiệm vụ công tác tuyên giáo Công đoàn; Đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục trong doanh nghiệp Nhà nước; Lộ trình tái cấu trúc doanh nghiệp của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam; Những vấn đề thời sự nổi bật trong nước và quốc tế trong thời gian qua; triển khai công tác tuyên giáo công đoàn trong thời gian sắp tới và tuyên truyền Đại hội XI Công đoàn Việt Nam. Bên cạnh đó, qua tập huấn, các học viên được củng cố những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ công tác tuyên giáo Công đoàn.

Đợt tập huấn cũng là dịp giao lưu, gặp gỡ, trao đổi thông tin, kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn tại cơ sở của các đồng chí cán bộ làm công tác tuyên giáo Công đoàn, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cán bộ Công đoàn các cấp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới./.

                                                                                                Nguồn www.vinacomin.vn

Xem xét xuất khẩu than ở mức phù hợp

Một trong những giải pháp đang được Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) nỗ lực thực hiện, nhằm ổn định sản xuất, lo đủ việc làm và tồn kho hợp lý là bám sát tình hình thị trường, có kế hoạch điều hành sản xuất và tiêu thụ than phù hợp.

      Một trong những giải pháp đang được Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) nỗ lực thực hiện, nhằm ổn định sản xuất, lo đủ việc làm và tồn kho hợp lý là bám sát tình hình thị trường, có kế hoạch điều hành sản xuất và tiêu thụ than phù hợp

Theo kế hoạch, năm 2013, Vinacomin sẽ sản xuất và tiêu thụ 43 triệu tấn than. Tuy nhiên, cho đến hết tháng 4, tình hình tiêu thụ than vẫn rất khó khăn, nhất là thị trường xuất khẩu. Theo Phó Tổng giám đốc Vinacomin Nguyễn Văn Biên, giá than cho điện đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép điều chỉnh tăng 27% so với giá thành sản xuất than năm 2011 kể từ ngày 20/4. Hiện giá than cho điện sau điều chỉnh đã đạt xấp xỉ 85-87% giá thành sản xuất than của năm 2013. Được biết, trong quý I, riêng than cho điện đã chiếm tới 50% sản lượng than tiêu thụ trong nước.Trước những khó khăn trong vấn đề xuất khẩu than, kéo dài từ năm 2012 đến nay, Vinacomin kiến nghị cho áp dụng cơ chế thuế xuất khẩu than theo giá than trên thị trường thế giới bình quân hàng quý. Như vậy, sẽ giúp Vinacomin chủ động trong điều hành sản xuất, tiêu thụ than cũng như đảm bảo thuận lợi, minh bạch trong tính toán thuế. Cụ thể, mức thuế xuất khẩu than được Vinacomin đề xuất trong giai đoạn hiện nay là: 10% khi giá than bình quân (tính theo loại cám AHG) dưới 75 USD/ tấn, mức 15% khi giá từ 75-85 USD/ tấn và mức 20% khi giá trên 85 USD/tấn.

Theo Phó Tổng giám đốc Nguyễn Văn Biên, mức thuế xuất khẩu 10% đang áp dụng với Vinacomin hiện thuộc mức thuế suất cao nhất thế giới. Chỉ cần tăng thuế xuất khẩu than thêm 1% so với mức 10% hiện nay, Vinacomin có thể phải dừng xuất khẩu và người lao động sẽ lại rơi vào tình trạng thiếu việc làm như năm 2012. Sau khi trừ thuế và các chi phí, giá than xuất khẩu hiện cũng chỉ đủ bù đắp giá thành .

Được biết, trong quý I, do giá than thế giới xuống thấp, ngành than buộc phải tăng sản lượng ở nơi sản xuất có giá thành thấp, giảm sản lượng khai thác ở nơi có giá thành cao để đảm bảo sản lượng khai thác hợp lý và hạ giá thành sản xuất để có thể tiêu thụ than. Tuy nhiênđây chỉ là giải pháp tình thế vì các mỏ có giá thành thấp không thể huy động sản lượng ở mức cao cả năm vì tài nguyên có hạn. Đối với đơn vị có giá thành sản xuất cao, Vinacomin cũng không thể lùi mãi về sản lượng vì ảnh hưởng đến đời sống công nhân cũng như không thể dừng lò được vì chi phí khởi động lại lò sẽ rất tốn kém.

Để phấn đấu hoàn thành kế hoạch quý II, bên cạnh việc tiếp tục quyết liệt tiết giảm chi phí, bám sát thị trường, điều hành phù hợp theo từng tháng, Vinacomin đang cùng các đơn vị chủ động, khẩn trương triển khai thực hiện Đề án “Tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam giai đoạn 2012-2015”./.

Nguồn: Báo Công Thương Điện tử

Giao lưu văn nghệ Việt Nga: cùng hát bài ca chiến thắng

Chào mừng kỷ niệm 38 năm ngày chiến thắng 30/4 (1975 – 2013), ngày Quốc tế Lao động 1/5, kỷ niệm 58 năm ngày giải phóng khu mỏ 25/4 (1955 – 2013) và 50 năm thành lập tỉnh Quảng Ninh, tối 24/4, tại Hạ Long, Vinacomin đã phối hợp với Trung ương Hội Hữu nghị Việt – Nga tổ chức chương trình giao lưu văn nghệ với chủ đề "Cùng hát bài ca chiến thắng".

 Chào mừng kỷ niệm 38 năm ngày chiến thắng 30/4 (1975 – 2013), ngày Quốc tế Lao động 1/5, kỷ niệm 58 năm ngày giải phóng khu mỏ 25/4 (1955 – 2013) và 50 năm thành lập tỉnh Quảng Ninh, tối 24/4, tại Hạ Long, Vinacomin đã phối hợp với Trung ương Hội Hữu nghị Việt – Nga tổ chức chương trình giao lưu văn nghệ với chủ đề “Cùng hát bài ca chiến thắng”.

Tham dự buổi giao lưu có bà Nguyễn Thị Minh Hiền, Tổng Thư ký Trung ương Hội Hữu nghị Việt – Nga; đại diện lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh, Hội Hữu nghị Việt – Nga tỉnh Quảng Ninh; đồng chí Trần Xuân Hòa, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) cùng nhiều đồng chí Lãnh đạo Tập đoàn, Lãnh đạo các đơn vị thuộc Vinacomin và đông đảo khán giả vùng mỏ Quảng Ninh.

Ông Bùi Văn Khích – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn đã phát biểu khai mạc, trong đó nhấn mạnh, thông qua chương trình giao lưu, những người thợ mỏ Việt Nam mong muốn bày tỏ tình cảm trân trọng, biết ơn đối với đất nước và nhân dân Liên Xô trước đây, CHLB Nga ngày nay đã dành sự hỗ trợ, hợp tác, giúp đỡ qúy báu đối với đất nước Việt Nam nói chung và Ngành Than – Khoáng sản nói riêng.

Với nhiều tiết mục ca, múa, nhạc đặc sắc do các nghệ sỹ công huân CHLB Nga và các nghệ sỹ Đoàn Nghệ thuật Quần chúng của Vinacomin, được biểu diễn trên nền nhạc do ban nhạc nổi tiếng Balalanca trình bày đã mang đến cho khán giả vùng mỏ Quảng Ninh các giai điệu mang đậm nét dân gian của hai nước Việt – Nga, đặc biệt là các bài hát, điệu múa của nước Nga đã rất thân thuộc với người dân vùng mỏ như Chiều Mát-xcơ-va, Cachiusa, Triệu bông hồng, Trên những cánh đồng, Dòng sông Vonga…

Buổi giao lưu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả về văn hóa Nga, gắn chặt thêm tình thân ái, hữu nghị giữa hai dân tộc, góp phần tăng cường tình đoàn kết, gắn bó hữu nghị, hợp tác giữa hai nước Việt – Nga và sự hợp tác phát triển giữa Vinacomin với các đối tác của CHLB Nga.

Dưới đây là một số hình ảnh trong buổi giao lưu.

Đẩy nhanh tiến độ dự án khai thác alumin Nhân Cơ

Sau khi điều chỉnh tổng vốn đầu tư, đánh giá lại hiệu quả kinh tế cũng như tác động môi trường, Dự án Nhà máy alumin Nhân Cơ (Đắk Nông) đã được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện.

Sau khi điều chỉnh tổng vốn đầu tư, đánh giá lại hiệu quả kinh tế cũng như tác động môi trường, Dự án Nhà máy alumin Nhân Cơ (Đắk Nông) đã được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện

Theo đó, Thủ tướng đã giao Bộ Công Thương chỉ đạo Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam và các cơ quan liên quan có biện pháp khắc phục, tháo gỡ vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành dự án theo kế hoạch.

Về chính sách ưu đãi đặc thù cho dự án điện phân nhôm, Thủ tướng đã đồng ý về nguyên tắc cho dự án này được áp dụng mức ưu đãi cao nhất theo quy định hiện hành; giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương đề xuất, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Theo kế hoạch, Nhà máy alumin Nhân cơ sẽ vận hành vào cuối năm 2012 nhưng đến nay công trình chỉ mới hoàn thành được 45% kế hoạch. Ban quản lý dự án alumin Nhân cơ cho biết phải đến hết quý I/2014, Nhà máy mới bắt đầu chạy thử.

Việt Nam là một trong những nước có tiềm năng lớn về quặng bauxit trong khu vực và trên thế giới với trữ lượng khoảng trên 5,4 tỷ tấn, tập trung nhiều nhất ở Tây Nguyên và đặc biệt ở tỉnh Đắk Nông.

Được biết, dự án Nhà máy alumin Nhân Cơ được đầu tư theo 2 giai đoạn, giai đoạn 2007 – 2012 có công suất thiết kế 650.000 tấn alumin/năm và giai đoạn sau 2015 dự kiến sẽ nâng công suất lên gấp đôi.
Khi nhà máy alumin đi vào hoạt động doanh thu bình quân hàng năm khoảng 210 triệu USD. Cùng với việc thực hiện đầu tư dự án Nhà máy sản xuất alumin Nhân Cơ, Vinacomin sẽ nghiên cứu và nếu khả thi sẽ triển khai đầu tư sớm nhà máy điện phân nhôm công suất khoảng 150.000 tấn đến 200.000 tấn/năm.

Hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án đã được Bộ Tài nguyên – Môi trường phê duyệt. Vinacomin cho biết, Dự án áp dụng công nghệ Bayer để sản xuất alumin, áp dụng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường tiên tiến. Theo đó, quặng nguyên khai được tuyển rửa tại Nhà máy tuyển sẽ được chuyển vào Nhà máy để sản xuất ra alumin thông qua tuyến băng tải dài khoảng 5,5 km

Nhà máy tuyển quặng bauxit áp dụng công nghệ tuyển quặng tuần hoàn sử dụng tối đa lượng nước rửa thông qua giải pháp máy lắng đọng bùn. Hệ thống xử lý nước thải được vận hành theo công nghệ tiên tiến, bảo đảm chất thải ra môi trường dưới dạng khô, đáp ứng cho yêu cầu hoàn thổ sau khai thác bauxit.

Nguồn: Vinacomin

Giải cầu lông, bóng bàn phong trào vòng loại khu vực V

Trong hai ngày 11 và 12/4/2013, tại Nhà thi đấu TDTT Thành phố Thái Nguyên, đã diễn ra "Giải cầu lông, bóng bàn phong trào vòng loại khu vực V". Tham dự giải gồm 17 đơn vị (Công ty CN mỏ Việt Bắc, Tổng Công ty Công nghiệp Hóa chất-mỏ; TCT Điện lực, CT CP Tư vấn Mỏ-Công nghiệp  ,…), Tổng Công ty Khoáng sản-Vinacomin là đơn vị đăng cai tổ chức giải.

Thực hiện công văn số 22/TB-Vinacomin, ngày 14/3/2013 của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, về việc tổ chức “Giải các môn thể thao phong trào năm 2013”, trong ngày 11 và 12/4/2013, tại Nhà thi đấu TDTT Thành phố Thái Nguyên, đã diễn ra “Giải cầu lông, bóng bàn phong trào vòng loại khu vực V”. Tham dự giải gồm 17 đơn vị (Công ty CN mỏ Việt Bắc, Tổng Công ty Công nghiệp Hóa chất-mỏ; TCT Điện lực, CT CP Tư vấn Mỏ-Công nghiệp  ,…), Tổng Công ty Khoáng sản-Vinacomin là đơn vị đăng cai tổ chức giải.

Lễ khai mạc giải

Theo quy định chung, với 2 nhóm đối tượng tham gia, đối tượng 1 là các cán bộ lãnh đạo các đơn vị và đối tượng 2 là toàn thể CBCNVC, với các lứa tuổi 31-40, 41-50; 51-60 (Nữ tối đa 55 tuổi), giải áp dụng thể thức thi đấu: đơn, (nam, nữ), đôi (nam, nữ) và đôi nam-nữ đối với môn bóng bàn; môn cầu lông chỉ tổ chức thi đấu đôi (đôi nam, đôi nữ và đôi nam – nữ); chia thành các bảng đấu tương ứng hình thức thi đấu và lứa tuổi, trong bảng thi đấu vòng tròn một lượt tính điểm để xác định thứ hạng.

Đoàn Viện Khoa học Công nghệ Mỏ do Phó Viện trưởng, Chủ tịch Công đoàn TS. Trương Đức dư làm trưởng đoàn, cùng 9 vận động viên tham dự giải với các VĐV nhóm đối tượng 2, tham gia các nội dung đơn nam, đôi nam (bóng bàn), đôi nam và đôi nam-nữ (cầu lông).

Kết quả, các vận động viên của Viện đã nhận 4 giải thưởng cho 2 môn thi đấu:

Bóng bàn: Nhất đôi nam, nhóm tuổi 41-50 (Vũ Thái Nam – Lã Hồng Dực); nhì đơn nam  (Lã hồng Dực); ba đôi nam nhóm tuổi 31-40 (Vũ Châu Tuấn-Nguyễn Thành Nam).

Cầu lông: Giải Ba đôi nam-nữ nhóm tuổi 31-35 (Nguyễn Ngọc Bé-Ngọ Văn Phong).