Hội nghị nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị lắp đặt vì chống đào lò xây dựng cơ bản

Ngày 31/3/2017, Viện khoa học công nghệ mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu cấp cơ sở đề tài “Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị lắp đặt vì chống đào lò xây dựng cơ bản”

Hội đồng KHCN được thành lập theo Quyết định số 96/QĐ-VKHCNM, ngày 8/3/2017 gồm 7 thành viên, do TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng làm Chủ tịch; PGS. TS. Nguyễn Đức Sướng – Phó chủ tịch (Hội Khoa học Công nghệ mỏ Việt Nam;  TS. Nguyễn Văn Xô (Trường Đại học Mỏ địa chất Hà Nội)- Phản biện 1; ThS. Mai Ngọc Thạch (Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam) – Phản biện 2.

Cơ quan chủ trì: Bộ Công Thương

Cơ quan thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: TS. Ngô Quốc Trung

Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài là nhằm tăng năng suất, an toàn và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động trong công tác đào chống lò. Đề tài đã tập trung vào các nội dung chính bao gồm: Nghiên cứu tổng quan hiện trạng công tác lắp đặt vì chống trong đào lò xây dựng cơ bản tại Việt Nam và Thế giới; Nghiên cứu đề xuất giải pháp lắp đặt vì chống và sơ đồ kết cấu thiết bị hỗ trợ lắp đặt; Thiết kế tính toán tổ hợp thiết bị phục vụ lắp đặt vì chống; Thiết kế lắp đặt bản vẽ và quy trình công nghệ chế tạo một số chi tiết thiết bị.

Tại Hội nghị, chủ nhiệm đề tài đã giới thiệu một số hình ảnh liên quan đến việc lắp đặt vì chống ở một số nước trên thế giới như Ba Lan. Séc, Đức, Nhật Bản… đồng thời trình bày giải pháp về kết cấu thiết bị lắp đặt vì chống; kết cấu sàn công tác…

Sau khi nghe nhóm thực hiện đề tài trình bày báo cáo tổng kết, các thành viên trong Hội đồng đã đóng góp nhiều ý kiến, trong đó, về cơ bản đánh giá nhóm thực hiện đã hoàn thành đầy đủ các nội dung nghiên cứu đề ra. Báo cáo trình bày rõ ràng, minh bạch. Hội đồng nghiệm thu cũng đánh giá cao  tính thực tiễn của đề tài, ý tưởng của đề tài phù hợp với tình hình thực tiễn… Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cần bổ sung dữ liệu và điều chỉnh số liệu cho phù hợp. Đề tài được Hội đồng thống nhất nghiệm thu cấp cơ sở./.

Lãnh đạo Tập đoàn TKV làm việc về thay đổi mức chất tải và hệ thống trục tải giếng đứng chính dự án khai thác hầm lò mỏ than Khe Chàm II-IV

Ngày 29/3/2017, tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin Phó tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam Khuất Mạnh Thắng đã chủ trì cuộc họp để nghe báo cáo và trao đổi, thảo luận về về việc thay đổi tổ hợp chất tải và giảm 01 hệ thống trục tải giếng đứng chính +35/-500 – Dự án khai thác hầm lò mỏ Khe Chàm II-IV.

Tham dự buổi làm việc  về phía tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam có đại diện lãnh đạo một số ban  ĐT, KCM, KCL, TN, CV, Công ty CP Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp – Vinacomin. Về phía Chủ đầu tư – Công ty than Hạ Long có ông Bùi Đình Thanh, Giám đốc và các cán bộ liên quan trong Ban Quản lý dự án mỏ Khe Chàm II-IV. Về phía nhà thầu tư vấn thiết kế, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, Viện trưởng Trần Tú Ba, cùng một số cán bộ tham gia thực hiện dự án. Về phía Công ty CP Giproshat có Ông Attkishkin Ygor Vladimirovich, Giám đốc Kỹ thuật, Ammosov Maksym Germanovich, giám đốc điều hành, Ông Biriukov Anatoly Nikolaevic, Tổng giám đốc Công ty Mashinoe.

Tại buổi làm việc, Công ty than Hạ Long – Vinacomin và Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã trình bày báo cáo. Trong đó, với điều kiện địa chất, kỹ thuật và công suất khai thác mỏ cần đáp ứng cũng như phù hợp với các định hướng ban đầu về việc xem xét đến khả năng công suất mỏ và khai thác phần sâu hơn dưới mức -500 sau này thì các giải pháp về công nghệ vận tải của hệ thống trục tải giếng đứng dự án khai thác hầm lò mỏ Khe Chàm II-IV đã lựa chọn là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, theo kết quả tổng hợp trữ lượng, tài nguyên còn lại của mỏ Khe Chàm II-IV thì tổng tài nguyên, trữ lượng mỏ Khe Chàm II-IV giao cho Công ty than Hạ Long quản lý, bảo vệ theo quy định số 759/QĐ-TKV ngày 05/5/2015 các vỉa 9,8,7,6,5,4,3,2,1 từ mức – 500 đến đáy tầng than mức -1350 là 136,3 triệu tấn nhưng phần trữ lượng, tài nguyên này có độ tin cậy thấp, chủ yếu là cấp 333+334a (123,3 triệu tấn) cần thăm dò bổ sung do vậy vấn đề xem xét nâng công suất mỏ Khe Chàm II-IV Công ty than Hạ Long đề xuất sẽ được xem xét sau, trong một dự án khác (khi có đầy đủ tài liệu địa chất thăm dò bổ sung phần sâu dưới -500)

Như vậy nếu tính chỉ tính toán với công suất mỏ 3,5 triệu tấn/ năm thì chỉ cần đầu tư 01 hệ thống trục tải tại giếng đứng chính (01 máy trục tải, công suất 3500 kW kết hợp 02 thùng Skip, dung tích thùng 26 m) và một mức chất tải tại mức -300 như dự án đã lập và đồng nghĩa sẽ giảm được đáng kể tổng vốn đầu tư dự án. Từ đó Công ty than Hạ Long- TKV và Viện Khoa học Công nghệ mỏ – Vinacomin đề xuất: Chỉ sử dụng 01 mức chất tải tại mức -450, theo đó chỉ đầu tư 01 hệ thống trục tải cho mức 450 (chuyển từ mức -300 xuống, không phải đầu tư 01 hệ thống trục tải cho mức chất tải trong giai đoạn duy trì); Hình dạng, kết cấu vị trí lắp đặt của tháp giếng và bố trí khung cốt giếng ở trong giếng được giữ nguyên theo các thiết kế đã lập.

Sau khi nghe báo cáo của chủ đầu tư và cơ quan tư vấn, các thành viên tham dự đã cùng trao đổi, thảo luận về những đề xuất nói trên. Kết luận cuộc họp, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Khuất Mạnh Thắng đề nghị các ban các đơn vị có liên quan tổng hợp hoàn chỉnh báo cáo trước ngày 15/4/2017, để trình Hội đồng thành viên tập đoàn cho chủ trương thực hiện.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Trường Đại học Mỏ và Công nghệ Từ Châu, Trung Quốc

Ngày 28/3/2017, Viện khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Trường Đại học Mỏ và Công nghệ Từ Châu, Trung Quốc về vấn đề đào tạo sau đại học và nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ trong lĩnh khai thác than lộ thiên.

Tham dự, về phía Trường Đại học Mỏ và Công nghệ Từ Châu có giáo sư Cai Qing Xiang và tiến sĩ Chen ShuZhao. Tiếp và làm việc với đoàn, phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin có tiến sĩ Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng cùng các cán bộ liên quan.

Tại buổi làm việc, hai bên đã giới thiệu về tiềm năng và nhân lực của mình với đối tác. Theo đó, Trường Đại học Mỏ và Công nghệ Từ Châu là một trong những trường đại học hàng đầu của Trung Quốc về ngành mỏ. Trường đã có hơn 100 năm thành lập với các chuyên ngành đào tạo như công nghệ khai thác lộ thiên, hầm lò, tuyển khoáng, điện tự động hóa, cơ điện, cơ khí v.v. Ngoài chức năng đào tạo, Nhà trường còn kết hợp với các công ty, các viện để nghiên cứu chuyên sâu và chuyển giao công nghệ…

Trao đổi về vấn đề đào tạo, TS. Lưu Văn Thực cho biết trong những năm gần đây Viện đã cử nhiều cán bộ đi đào tạo sau đại học tại Trung Quốc, tuy nhiên số lượng cán bộ đào tạo tại Trường Đại học Mỏ và Công nghệ Từ Châu còn ít. Phía Viện mong muốn trong thời gian tới sẽ hợp tác với Nhà trường để các cán bộ của Viện có nhiều cơ hội được đào tạo, nghiên cứu tại Trường hơn. Trao đổi về vấn đề công nghệ, phía Viện đã nêu khái quát tình hình khai thác, điều kiện địa chất tại các mỏ than lộ thiên vùng Quảng Ninh, Việt Nam nói chung,cụ thể là mỏ than Cao Sơn (là mỏ có sản lượng khai thác than lộ thiên lớn nhất vùng Quảng Ninh – khoảng 4 triệu tấn thán/năm; điều kiện khai thác phức tạp, khai thác xuống sâu, chiều cao bờ mỏ lớn; cung độ vận tải xa…). Từ đó phía Viện đã đưa ra một số khó khăn, vướng mắc liên quan tới  khai thác than lộ thiên như: Xử lý bùn đáy mỏ sau mùa mưa; Sạt lở bờ mỏ, sạt lở bãi thải đối với các mỏ có bờ mỏ và bãi thải cao; Công tác vận tải trên các mỏ lộ thiên sâu; Nguy cơ bục nước khi kết hợp khai thác lộ thiên và khai thác hầm lò…

Giáo sư Cai Qing Xiang đã trao đổi về kinh nghiệm quản lý, vận hành mỏ của Nhà trường, cụ thể tại một mỏ khai thác than lộ thiên tại tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) có điều kiện khai thác tương tự các mỏ của Việt Nam, như tuổi mỏ, góc dốc bờ khai thác lớn, lượng mưa hàng năm tương đồng,… đối với vấn đề vận tải trên mỏ lộ thiên, ở Trung Quốc người ta thay thế hình thức vận tải ôtô bằng hình thức vận tải liên tục đã giúp giảm đáng kể chi phí vận tải và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Đối với những vấn đề công nghệ mà Viện đưa ra, Giáo sư đề xuất, trong chuyến thăm thực tế vùng Quảng Ninh sắp tới (ngày 29 và 30/3/2017), Đoàn sẽ có đánh giá chung về điều kiện địa chất cũng như công nghệ áp dụng của các mỏ than lộ thiên Việt Nam, từ đó sẽ có nghiên cứu, bàn bạc giải pháp cụ thể. Giáo sư Cai Qing Xiang cũng nhấn mạnh, qua tìm hiểu, phía Nhà trường được biết Viện là một trong những đơn vị nghiên cứu, tư vấn đầu ngành của ngành Than Việt Nam. Trong thời gian tới, Giáo sư nói riêng và Nhà trường nói chung sẽ ủng hộ nhiệt tình và tạo mọi điều kiện để các cán bộ của Viện được sang học tập, nghiên cứu tại trường. Trong chuyến công tác lần này, Nhà trường mong muốn hướng tới việc ký kết biên bản ghi nhớ với Viện, trên cơ sở đó, hai bên sẽ triển khai hợp tác nghiên cứu, đào tạo lâu dài.

Sau buổi làm việc, đoàn hai bên đã cùng tham quan một số phòng nghiên cứu chủ chốt của Viện.

 

 

Lãnh đạo Tập đoàn làm việc tại Công ty than Cửa Ông

Ngày 14/3/2017, Thành viên HĐTV Vũ Thành Lâm đã có buổi làm việc tại Công ty tuyển than Cửa Ông.

Tham dự đoàn công tác có Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn ông Nguyễn Đình Thịnh, đại diện lãnh đạo một số Ban liên quan của Tập đoàn…, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ có ông Trần Tú Ba, Viện trưởng, cùng một số trưởng, phó phòng có liên quan.

Tiếp và làm việc với đoàn, về phía Công ty tuyển than Cửa Ông có ông Đặng Văn Khôi, Giám đốc, các Phó Giám đốc, cùng một số trưởng, phó phòng chuyên môn…

 Theo chương trình làm việc, Đoàn đã đi kiểm tra thực tế tình hình sản xuất tại của nhà máy tuyển, các hệ thống điều khiển, giám sát tập trung và tự động hóa đã được lắp đặt tại phân xưởng kho bến 2 và Nhà máy lọc ép bùn than.

Tại buổi làm việc, Trưởng phòng công nghệ tuyển than, trưởng phòng cơ điện và trưởng phòng đầu tư, Công ty tuyển than Cửa Ông đã báo cáo hiện trạng công nghệ sàng tuyển tại các nhà máy tuyển than 1, 2 và 3 Cửa Ông, dự kiến chương trình tự động hóa tại nhà máy tuyển than Cửa Ông 1 và các dự án đang và dự kiến sẽ triển khai tại Công ty tuyển than Cửa Ông. Theo báo cáo, trong thời gian tới Công ty sẽ triển khai lắp đặt hệ thống điều khiển và tự động hóa cho các nhà máy tuyển than 1, 2 và 3.

Tiếp đó, đại diện lãnh đạo các ban và đơn vị tư vấn, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vincomin đã phát biểu ý kiến, trong đó, tập trung vào việc đầu tư hệ thống tự động hóa tại các nhà máy tuyển than Cửa Ông, nhằm đáp ứng nhu cầu kiểm soát sản lượng và chất lượng cho các nhà máy tuyển than Cửa Ông.

Phát biểu kết thúc chuyến công tác và làm việc, Thành viên HĐTV Vũ Thành Lâm đã chỉ đạo ban KCM và Công ty Tuyển than Cửa Ông cần nghiên cứu kỹ, đánh giá tổng thể các dự án đang triển khai và các dự án dự kiến triển khai để Tập đoàn có cơ sở đầu tư đáp ứng yêu cầu tự động hóa trong thời gian tới góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty tuyển than Cửa Ông nói riêng và của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản nói chung./.

Lãnh đạo Tập đoàn kiểm tra thực tế áp dụng công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng giàn mềm tại Hồng Thái

Ngày 2/3/2017, Thành viên HĐTV Vũ Thành Lâm đã có chuyến công tác, làm việc với Công ty than Hồng Thái về thực tế áp dụng công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng giàn mềm tại vỉa 9b, mức +150/+200, khu Tràng Khê II.

Tham dự đoàn công tác có Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn, ông Nguyễn Đình Thịnh, đại diện lãnh đạo một số Ban liên quan của Tập đoàn, Ban KCL, KCM, CV, TN… đại diện lãnh đạo Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, ông Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng, cùng một số trưởng, phó phòng có liên quan; Công ty CP Cơ khí Mạo Khê, ông Nguyễn Hải Long, Giám đốc, ông Đặng Văn Phối, Phó Giám đốc.

Tiếp và làm việc với đoàn, về phía Công ty than Hồng Thái có ông Nguyễn Quế Thanh, Giám đốc, ông Đỗ Mạnh Cường, Phó Giám đốc, cùng một số trưởng, phó phòng, KCM, CV…

Tại buổi làm việc, ông Nguyễn Quế Thanh, Giám đốc Công ty và ông Đào Hồng Quảng đã báo cáo với đoàn toàn bộ quá trình nghiên cứu, áp dụng thử nghiệm công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống bằng giàn chống mềm ZRY, cùng việc nghiên cứu thiết kế, chế tạo nội địa hóa giàn chống mềm. Theo đó, thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo Tập đoàn, tại văn bản số 1911/TKV-KCM, ngày 04/4/2014, Công ty đã phối hợp với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ lập “Dự án đầu tư áp dụng thử nghiệm công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng giàn chống mềm loại ZRY của Trung Quốc, tại Công ty than Hồng Thái”. Quá trình thực hiện Dự án, việc triển khai áp dụng thử nghiệm được chia thành 2 giai đoạn, giai đoạn 1, mở lò chợ ở phân tầng +65/+95 vỉa 9b, khu Tràng Khê II, chiều dài gương lò chợ xiên chéo khoảng 40 m, góc dốc nền lò chợ khoảng 30 độ, với chiều dài theo phương khoảng 40 m, giai đoạn 2, kéo dài lò chợ xuống mức +40, tạo gương lò chợ xiên chéo dài 105 m. Đến cuối tháng 7/2015, lò chợ đầu tiên đã hoàn thành lắp đặt toàn bộ dây chuyền thiết bị và đưa vào vận hành,  tháng 9/2015, kết thúc lò chợ giai đoạn 1, triển khai lò chợ giai đoạn 2 và kết thúc cuối năm 2016. Tiếp đó, chuyển diện sang lò chợ mức +150/+200, vỉa 9b, khu Tràng Khê II và hiện đang khai thác. Khu vực áp dụng công nghệ, vỉa than dày trung bình 2 đến 3 m, dốc trung bình 50 độ. Gương lò chợ hiện tại dài 100 m, góc dốc nền khoảng 30 độ.

Kết quả áp dụng trong thời gian qua, cho thấy, sản lượng lò chợ giai đoạn 2 và hiện tại đạt trung bình 7800 tấn/tháng, năng suất lao động 6 tấn/công-ca, tổn thất 15 đến 20%, đảm bảo an toàn.

Từ những kết quả đạt được trong việc áp dụng công nghệ này tại Hồng Thái, Công ty than Uông Bí đã phối hợp với Viện lập Thiết kế BVTC lò chợ 8(43)-3 TK, mức -50/+10, mỏ Tràng Bạch, áp dụng công nghệ nói trên. Lò chợ này được đưa vào vận hành cuối tháng 6/2016.

Đánh giá chung, trong điều kiện vỉa dày trung bình, dốc trên 45 độ, tại khu Tràng Khê II, Công ty than Hồng Thái, cũng như tại khu Tràng Bạch, Công ty than Uông Bí, cho thấy, công nghệ mới có nhiều ưu điểm cơ bản so với các công nghệ đã áp dụng trước đó, năng suất lao động tăng, giảm chi phí sản xuất, giảm tổn thất than, đặc biệt, nâng cao mức độ an toàn, thao tác công nghệ đơn giản.

Thực tế, trong năm qua, Viện đã triển khai các bước lập Báo cáo đáng giá khả năng đầu tư áp dụng mở rộng công nghệ này cho các khu vực có điều kiện phù hợp tại Vàng Danh, Nam Mẫu, Mông Dương và Tổng Công ty Đông Bắc.

Liên quan đến việc mở rộng áp dụng công nghệ, với mục tiêu chế tạo nội địa hóa giàn chống mềm sử dụng trong công nghệ khai thác này, tháng 7/2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã đề xuất và được TKV giao thực hiện đề tài:  Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo giàn mềm có cơ cấu thủy lực trong điều kiện khai thác các vỉa than có chiều dày trung bình, góc dốc trên 45o”.

Thực hiện nội dung nghiên cứu của đề tài, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã hoàn thành nghiên cứu, thiết kế chế tạo giàn chống, mã hiệu GM 20/30, phối hợp cùng Công ty CP cơ khí Mạo Khê thực hiện chế tạo toàn bộ phần kết cấu của 2 bộ, gồm 6 giàn chống nói trên; phối hợp cùng Công ty CP công nghiệp ô tô Vinacomin cung cấp, chế tạo các linh kiện thuỷ lực của giàn chống, bao gồm các bộ van thủy lực, tay điều khiển, xy lanh đẩy sau… một số linh kiện, chi tiết thuỷ lực khác, như cột thuỷ lực, cút nối, đường ống… mua sẵn của các đơn vị kinh doanh, sản xuất trong nước. Theo đánh giá, tỷ lệ nội địa hóa đạt 90%. Tiếp đó, Viện đã trình hồ sơ thiết kế và bảo vệ trước hội đồng của Cục Kỹ thuật an toàn và môi trường Công nghiệp, Bộ Công Thương và được phép áp dụng thử nghiệm giàn chống trong hầm lò (QĐ số 1032/ATMT-MDK ngày 21 tháng 10 năm 2016). Từ đó, Viện đã phối hợp cùng Công ty than Hồng Thái lập biện pháp lắp đặt và tháng 12/2016 đã đưa 6 bộ giàn chống GM 20/30 vào thử nghiệm trong lò chợ II-9-2, mức +150/+200, vỉa 9b khu Tràng Khê II. Theo đánh giá, các giàn chống GM 20/30 làm việc ổn định, tương tự như các giàn chống ZRY của Trung Quốc đang vận hành trong lò chợ này. Tuy nhiên, qua thực tế sử dụng, giàn chống GM còn bộc lộ một số chi tiết cần hoàn thiện. Trong thời gian tới, dự kiến sẽ tiếp tục thử nghiệm các giàn chống này, đồng thời, Viện sẽ nghiên cứu, hoàn thiện thiết kế sản phẩm trong điều kiện áp dụng thực tế, làm cơ sở để đề xuất triển khai Dự án SXTN, chế tạo loại giàn chống này để chống giữ cho 1 lò chợ.

Trong các báo cáo của đại diện lãnh đạo các Ban liên quan, Ban KCM, KCL, TN, CV… đều thống nhất ghi nhận những kết quả trong việc áp dụng công nghệ cũng như chế tạo giàn chống GM, đồng thời đề cập đến khả năng mở rộng áp dụng công nghệ này trong các khu vực có điều kiện tương tự tại các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh.

Phát biểu tại buổi làm việc, ông Vũ Thành Lâm đã biểu dương và ghi nhận những kết quả mà các bên, chủ đầu tư, Công ty than Hồng Thái, cơ quan tư vấn, thiết kế, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, đơn vị chế tạo giàn chống GM, Công ty CP Cơ khí Mạo Khê đã đạt được trong việc nghiên cứu áp dụng thử nghiệm thành công công nghệ khai thác nói trên, cũng như việc nhanh chóng tiếp cận, kịp thời nghiên cứu, thiết kế chế tạo nội địa hóa giàn chống mềm sử dụng trong công nghệ này. Ông Vũ Thành Lâm nhấn mạnh những ưu điểm của công nghệ mới, so với các công nghệ khai thác áp dụng trước đó, cho các điều kiện vỉa dốc trên 45 độ, đó là tăng năng suất lao động, giảm thao tác nặng nhọc của công nhân, đặc biệt là mức độ an toàn cao,…

Tiếp đó, đoàn công tác đã kiểm tra thực tế hiện trường lò chợ. Tại đây, đoàn công tác đã được giới thiệu và chứng kiến các thao tác công nghệ, cũng như việc thực hiện quy trình công nghệ khai thác, di chuyển giàn chống, vận tải than… trong lò chợ, trực tiếp kiểm tra việc vận hành các giàn chống GM đang thử nghiệm.

Lãnh đạo Tập đoàn làm việc tại Viện khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Ngày 23/7/2017, tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, dưới sự chủ trì của Phó Tổng giám đốc Khuất Mạnh Thắng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin và Công ty than Núi Béo đã có buổi làm việc, đề xuất phương án huy động khai thác trước khu 2, vỉa 11, dự án mỏ than hầm lò Núi Béo.

Tham dự buổi làm việc có đại diện các ban  Đầu tư, KCM, Tài Nguyên; Công ty than Núi Béo có ông Ngô Thế Phiệt, Giám đốc, ông Trần Quốc Tuấn, Phó Giám đốc, kiêm Giám đốc dự án, ông Trần Quang Khải, Phó Giám đốc Dự án và một số cán bộ liên quan; về phía đơn vị tư vấn, thiết kế, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin có ông Trần Tú Ba, Viện trưởng, ông Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng, một số cán bộ liên quan.

Tại buổi làm việc, đại diện chủ đầu tư Công ty than Núi Béo và đơn vị tư vấn, thiết kế, Viện Khoa học Công nghệ mỏ – Vinacomin đã báo cáo tiến độ và phương án ra than sớm của mỏ than hầm lò Núi Béo. Theo đó, song song với việc triển khai lắp đặt thiết bị trục tải giếng đứng, Công ty than Núi Béo mở vỉa khai thác lộ thiên trên cả 4 khu: khu 1, khu 2, khu 3, khu 4, vỉa 11, dự kiến lò chợ đầu tiên tại khu 4, vỉa 11 sẽ tiến hành khai thác vào tháng 5/2017 và kết thúc khai thác vào cuối năm 2019, tiếp đó, khu 2, vỉa 11 sẽ khai thác vào cuối năm 2020, như vậy, nếu không chuẩn bị kịp diện sản xuất cho các lò chợ khu 1 và khu 2, vỉa 11, giai đoạn cuối năm 2019 đến cuối năm 2020 thì Công ty than Núi Béo sẽ hết diện khai thác, ảnh hưởng đến đời sống cán bộ, công nhân lao động Công ty.

Từ đó, đại diện chủ đầu tư và đơn vị tư vấn, thiết kế đã đề xuất và trình bày phương án huy động khai thác trước khu 2, vỉa 11 bao gồm: sơ đồ khai thông – chuẩn bị; sơ đồ thông gió mỏ; tiến độ ra than lò chợ; tổng dự toán và hiệu quả kinh tế. Việc khai thông lò chợ khu 2, vỉa 11 đảm bảo diện sản xuất gối đầu cho các lò chợ ra than sớm thuộc khu 3 và khu 4, vỉa 11, đưa mỏ vào khai thác sớm hơn 1 năm so với thiết kế kỹ thuật và 02 năm so với lịch trình thi công; giảm được 4.839m lò xây dựng cơ bản so với thiết kế kỹ thuật nên sẽ giảm được vốn đầu tư mới so với phương án thực hiện dự án như hiện nay; sử dụng lại tối đa các đường lò đào mới phục vụ chung cho cả dự án, góp phần đảm bảo việc làm cho cán bộ công nhân Công ty than Núi Béo, sau khi kết thúc khai thác lộ thiên năm 2019.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty Âu Việt

Ngày 22/2/2017, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã có buổi làm việc với Công ty Âu Việt cùng một số chuyên gia Công ty Becker – Warkop Sp. Z o.o (Ba Lan).

Tham dự buổi làm việc, có ông Nguyễn Quốc Hùng, Giám đốc Công ty Âu Việt cùng các chuyên gia Công ty Becker – Warkop Sp. Z o.o. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng, TS. Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng và trưởng, phó một số phòng chuyên môn có liên quan.

Nội dung chính, hai bên cùng quan tâm, đó là nghiên cứu lựa chọn áp dụng công nghệ hợp lý trong khai thác các vỉa dày, dốc của các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh.

Tại buổi làm việc, Công ty Becker Warkop và Công ty CP Công nghiệp Âu Việt đã giới thiệu về một số thiết bị, giải pháp công nghệ khai thác vỉa dày dốc và công nghệ vận tải hầm lò sử dụng monoray với đầu kéo diezen chuyển động bằng thanh răng.

Tại buổi làm việc, các bên đã cùng thảo luận, trao đổi cụ thể về tính năng kỹ thuật, phạm vi áp dụng, những ưu, nhược điểm của các thiết bị này cũng như khả năng áp dụng trong thực tế tại Nam Mẫu và các mỏ hầm lò tại Việt Nam.

Theo kế hoạch, sau buổi làm việc hôm nay, trong những ngày tới, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin sẽ cùng Công ty Becker Warkop khảo sát thực tế tại Công ty than than Nam Mẫu, làm cơ sở trong việc phát triển hợp tác giữa hai bên trong thời gian tới./.

Nghiên thu đề tài do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin thực hiện

Ngày 15/2/2016, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tổ chức nghiệm thu đề tài: “Nghiên cứu thiết kế chế tạo hệ thống bảng led điện tử chỉ dẫn và cảnh báo an toàn điều khiển từ xa cho các mỏ khai thác than hầm lò”.

Hội đồng khoa học công nghệ cấp Tập đoàn được thành lập theo Quyết định số 2903/QĐ-TKV, ngày 7/12/2016, gồm 8 thành viên, Phó Tổng Giám đốc Khuất Mạnh Thắng, làm Chủ tịch.

Cơ quan quản lý đề tài: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Mạnh Cường

Theo Báo cáo tổng kết trình bày tại Hội nghị, đề tài đã hoàn thành những nội dung nghiên cứu: 1) Tổng quan về hệ thống bảng led chỉ dẫn điện tử trong các mỏ than hầm lò; 2) Nghiên cứu lựa chọn giải pháp công nghệ hợp lý chế tạo hệ thống bảng led điện tử chỉ dẫn cho các mỏ than hầm lò; 3) Thiết kế, chế tạo hệ thống bảng led điện tử chỉ dẫn và cảnh báo an toàn, điều khiển từ xa cho các mỏ than hầm lò; 4) Ứng dụng thử nghiệm hệ thống bảng led điện tử chỉ dẫn tại khu Lộ Trí, Công ty than Thống Nhất – TKV.

Hiện nay, các mỏ khai thác than hầm lò Việt Nam hầu hết vẫn duy trì công tác chỉ dẫn thông tin trong các khu vực khai thác bằng phương pháp ghi và cập nhật thủ công, chỉ quan sát được bằng đèn lò ở cự ly gần, tiêu tốn thời gian ghi và không cập nhật được nhanh chóng nội dung thông tin cần thông báo. Khắc phục những hạn chế trên, đề tài đã xây dựng phương án kỹ thuật, thiết kế, chế tạo hệ thống bảng led điện tử đáp ứng tiêu các tiêu chuẩn về kiểm định phòng nổ và an toàn tia lửa, cho phép cập nhật thông tin từ xa bằng phần mềm cài đặt trên máy tính hoặc tại chỗ bằng bộ cầm tay, hiển thị liên tục thời gian thực, giá trị nhiệt độ, độ ẩm tại vị trí lắp đặt bộ bảng led.

Quá trình ứng dụng thử nghiệm tại khu vực hầm bơm mức -140 của mỏ than Thống Nhất cho thấy, hệ thống bảng led hoạt động ổn định, chính xác và tin cậy, đáp ứng được các yêu cầu thiết kế đề ra và phù hợp với điều kiện môi trường đáp ứng yêu cầu trong quá trình sản xuất. Đây là cơ sở để nhân rộng ra các mỏ khai thác than hầm lò trong Tập đoàn TKV.

Kết quả, các đề tài trên đều được Hội đồng khoa học cấp Tập đoàn đánh giá đạt loại khá./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Trường Quản trị Kinh doanh – Vinacomin

Ngày 13/2/2017, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Trường Quản trị kinh doanh – Vinacomin về việc hợp tác giữa Viện và nhà trường.

Tham dự buổi làm việc về phía Trường Quản trị kinh doanh có ông Phạm Đăng Phú, Hiệu trưởng, Ông Trần Xuân Chiến, Trưởng phòng Đào tạo, về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin có ông Trần Tú Ba, Viện trưởng, ông Phạm Chân Chính, Trưởng phòng Quản lý và Thông tin Khoa học, ông Nguyễn Văn Hậu, Trưởng phòng Đào tạo và phát triển dự án, Bà Phạm Vân Anh, Trưởng phòng Tổ Chức Cán bộ.

Tại buổi làm việc này, hai bên trao đổi, bàn bạc, về nội dung Công tác đào tạo quản lý cán bộ lãnh đạo và cán bộ nguồn cho Viện; Phối hợp thực hiện các chương trình đào tạo do trường Quản trị kinh doanh thực hiện; Hợp tác tham gia thực hiện các đề tài khoa học công nghệ trên cơ sở năng lực, sở trường của hai bên.

Kết quả buổi làm việc là cơ sở cho sự hợp tác giữ hai bên trong thời gian tới./.

Tập đoàn TKV: Kiểm tra tiến độ thực hiện đề tài do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ chủ trì thực hiện

Ngày hôm nay, 19/01/2017, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt nam đã có buổi làm việc, kiểm tra kết quả và tiến độ thực hiện đề tài: Nghiên cứu thiết kế, chế tạo giàn mềm có cơ cấu thủy lực, trong điều kiện khai thác các vỉa than dày trung bình, dốc trên 45 độ.

Thành phần đoàn kiểm tra gồm có, ông Phạm Công Hương, Trưởng Ban KCL, ông Nguyễn Văn Đụng, Phó trưởng Ban KCM, ông Đoàn Việt Tuấn, Phó trưởng Ban CV, ông Dương Văn Thìn, Phó trưởng Ban AT, cùng một số cán bộ, chuyên viên Ban KCL, CV.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, đơn vị chủ trì thực hiện đề tài có ông Trần Tú Ba, Viện trưởng, ông Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng, ông Đoàn Ngọc Cảnh, Chủ nhiệm đề tài, cùng một số trưởng phòng có liên quan.

Công ty CP Cơ khí Mạo Khê, đơn vị phối hợp chế tạo thiết bị, ông Nguyễn Hải Long, Giám đốc, ông Đỗ Xuân Vững,.Trưởng phòng KT&CN.

Công ty than Hồng Thái, đơn vị phối hợp thử nghiệm thiết bị, ông Đỗ Mạnh Cường, Phó Giám đốc, ông Nguyễn Trọng Hòa, Trưởng phòng KCM, ông Hoàng Văn Anh, Quản đốc Phân xưởng KT5, cùng một số cán bộ có liên quan.

Theo Chương trình, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, cùng các đơn vị phối hợp thực hiện sẽ trình bày Báo cáo kết quả, tiến độ thực hiện đề tài. Tiếp đó, Đoàn sẽ kiểm tra hiện trường trong hầm lò, lò chợ mức +158/+200, vỉa 9B, khu Tràng Khê II, nơi đang thử nghiệm giàn chống GM 20/30, sản phẩm của đề tài.

Như tin đã đưa, từ năm 2015, Công ty than Hồng Thái đã phối hợp với Viện KHCN Mỏ nghiên cứu và áp dụng thành công công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng giàn chống mềm ZRY20/30L, áp dụng khai thác vỉa than dày trung bình đến dày, mức độ biến động chiều dày lớn, dốc trên 45 độ. Với việc áp dụng giàn chống mềm, đã thay thế cho vật liệu chống giữ truyền thống, nâng cao mức độ an toàn, tăng công suất lò chợ, tăng năng suất lao động và giảm tổn thất than. Với điều kiện vỉa như trên, thực tế, từ trước đến nay chưa có công nghệ nào phù hợp, các mỏ vẫn phải áp dụng công nghệ khai thác buồng, tổn thất than lớn, nhất là mức độ an toàn hạn chế. Theo đánh giá, điều kiện vỉa như nói trên tại một số mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh có trữ lượng đến 9 triệu tấn, có thể áp dụng công nghệ khai thác này và thực tế, nhiều mỏ đang chuẩn bị triển khai áp dụng công nghệ. Tuy nhiên, thiết bị chống giữ lò chợ, giàn chống ZRY 20/30L, chúng ta vẫn phải nhập khẩu của Trung Quốc. Từ đó, để chủ động trong đầu tư công nghệ, giảm chi phí đầu tư…Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã đề xuất và được Tập đoàn tuyển chọn thực hiện đề tài nói trên.

Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài, với mong muốn nhanh chóng hoàn thành đề tài, chế tạo nội địa hóa được giàn chống mềm, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã nỗ lực trong việc triển khai thực hiện đề tài, thêm vào đó, là sự phối hợp hiệu quả của Công ty CP Cơ khí Mạo Khê và của Công ty than Hồng Thái. Đến nay, mặc dù mới chỉ 6 tháng thực hiện, nhưng đề tài đã hoàn thành chế tạo được giàn chống mềm GM 20/30 và đã đưa vào thử nghiệm trong lò chợ được 1 tháng.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin: Hội nghị nghiệm thu đề tài cấp cơ sở

Ngày 29/12/2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở,  đề tài: Biên soạn Hướng dẫn áp dụng công nghệ khai thác lò chợ chân khay, chống cột thủy lực đơn kết hợp xà khớp, trong điều kiện các vỉa than dày trung bình, dốc 35-450 vùng Quảng Ninh. Mã số KC.06.DD-16/16-20.

Hội đồng khoa học công nghệ cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 748/QĐ-VKHCNM, ngày 29/11/2016, gồm 7 thành viên, TS. Trần Tú Ba, làm Chủ tịch, TS. Trương Đức Dư, Phó Chủ tịch, PGS. TS. Trần Xuân Hà và PGS. TS. Trần Văn Thanh, Trường Đại học Mỏ – Địa chất, Phản biện.

Cơ quan quản lý đề tài: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Trung Nguyên

Theo Báo cáo tổng kết trình bày tại Hội nghị, Hướng dẫn áp dụng công nghệ khai thác lò chợ chân khay, chống cột thủy lực đơn kết hợp xà khớp, trong điều kiện các vỉa than dày trung bình, dốc 35-45vùng Quảng Ninh, Đề tài đã thực hiện như sau:

1) Tổng hợp, đánh giá kết quả áp dụng công nghệ này, đã áp dụng tại Hồng Thái, Uông Bí và Quang Hanh thời gian qua;

2) Xây dựng hướng dẫn tính toán các thông số cơ bản của công nghệ, bao gồm điều kiện áp dụng, tính toán xác định chiều dài lò chợ (theo phương, theo hướng dốc), góc dốc biểu kiến của lò chợ, số lượng chân khay, chiều dài chân khay, chiều dài vượt trước của các bậc chân khay; xây dựng hướng dẫn tính toán lập hộ chiếu chống giữ, khai thác lò chợ; …

3) Xây dựng hướng dẫn Quy trình công nghệ, bao gồm các công đoạn, từ phá hỏa ban đầu, khấu, chống đưa lò chợ ban đầu về dạng chân khay, khai thác thường kỳ và quay về dạng lò chợ ban đầu, kết thúc khai thác lò chợ;

4) Xây dựng hướng dẫn các biện pháp kỹ thuật an toàn;

5) Xây dựng hướng dẫn biện pháp xử lý một số sự cố thường gặp;

6) Xây dựng Quy định trách nhiệm quản lý và thực hiện.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin: Hội nghị nghiệm thu đề tài cấp cơ sở

Ngày 29/12/2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở,  đề tài: “Nghiên cứu giải pháp kỹ thuật sử dụng hiệu quả nguồn điện tự dùng tại Công ty Nhôm Lâm Đồng”.

Hội đồng khoa học công nghệ cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 502/QĐ-VKHCNM, ngày 30/6/2016, gồm 7 thành viên, TS. Trần Tú Ba, làm Chủ tịch, TS. Đào Đắc Tạo, Hội Khoa học Công nghệ Mỏ, Phó Chủ tịch, PGS. TS. Đào Văn Tân, Trường Đại học Mỏ – Địa chất, Phản biện 1 và TS. Bùi Minh Định, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Phản biện 2.

Cơ quan quản lý đề tài: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Vũ Thế Nam

Theo Báo cáo tổng kết trình bày tại Hội nghị, Đề tài đã đề xuất được các giải pháp kỹ thuật cải tạo hệ thống cung cấp điện cho Công ty nhôm Lâm Đồng góp phần ổn định nguồn cung cấp và sử dụng hiệu quả nguồn điện của Công ty. Theo đó, nguồn điện cung cấp cho tổ hợp bauxít nhôm Lâm đồng là từ Nhà máy nhiệt điện của tổ hợp và từ lưới điện Quốc gia. Tuy nhiên lưới điện Quốc gia chỉ có 1 tuyến cung cấp cho Nhà máy, chưa có tuyến dự phòng, vì vậy khi gặp sự cố mắt điện, Tổ hợp sẽ phải ngưng sản xuất và phải dùng máy phát điện duy trì cung cấp điện cho phụ tải loại 1 của Nhà máy luyện Alumin. Trong khi đó, hệ thống điều khiển của nhà máy điện và trạm điện của Tổ hợp không có chức năng tự động sa thải phụ tải không cần thiết. Từ những đánh giá trên cho thấy, Nhà máy nhiệt điện của Công ty Nhôm còn nhiều tồn tại, do hệ thống điều khiển chưa đồng bộ và tự động hóa.

Qua quá trình nghiên cứu, đề tài đã đề xuất áp dụng giải pháp ứng dụng tại Công ty bao gồm: Áp dụng giải pháp kỹ thuật điều khiến cho 2 quạt khói lò hơi tấng sôi tuần hoàn cho Nhà máy nhiệt điện; Giải pháp kỹ thuật điều khiển cho hệ thống bơm nước làm mát các khâu công nghệ sản xuất; Giải kỹ thuật điều khiển cho khâu khấy thuộc công nghệ kết tinh; Giải pháp kỹ thuật điều khiển hệ thống băng chuyền tải thuộc khâu công nghệ tuyển; Giải pháp kỹ thuật điều khiển giám sát và quản lý tự động điện năng; Giải pháp kỹ thuật sử dụng hiệu quả nguồn điện tự dùng tại Công ty TNHH MTV nhồm Lâm Đồng – TKV theo quy trình vận hành của nhà máy ứng với mỗi sự biến thiên của chi phí điện năng và chi phí than.

Khai giảng lớp đào tạo bồi dưỡng kỹ năng điều hành sản xuất, kỹ năng nhận biết, xử lý nguy cơ và giải pháp thoát hiểm trong quá trình khai thác mỏ

Ngày 26/12/2016 tại Trung tâm An toàn mỏ,Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức khai giảng lớp đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng điều hành sản xuất, kỹ năng nhận biết, xử lý nguy cơ và giải pháp thoát hiểm trong quá trình khai thác mỏ cho các quản đốc, phó quản đốc công trường, phân xưởng của các đơn vị thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam.

Tham dự lễ khai giảng, về phía Lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam có Ông Bùi Quốc Tuấn, Chánh thanh tra mỏ, Phó Giám đốc Trung tâm Điều hành sản xuất Quảng Ninh, Ông Nguyễn Văn Trịnh, Trưởng ban An toàn, Ông Dương Văn Thìn, Phó Trưởng ban An toàn; Ông Phạm Ngọc Lược – Phó Trưởng ban KCM; Ông Đoàn Việt Tuấn, Phó Trưởng ban Cơ điện – Vận tải. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin có Ông Trần Tú Ba – Viện trưởng, Ông Đào Hồng Quảng – Phó Viện trưởng cùng đại diện lãnh đạo phòng ban và đơn vị liên quan. Tham dự buổi lễ còn có đại diện Lãnh đạo các đơn vị có học viên tham gia lớp học gồm Công ty than Uông Bí, Công ty than Vàng Danh, Công ty than Nam Mẫu, Công ty than Hồng Thái, Công ty than Mạo Khê, Công ty Xây dựng mỏ hầm lò II; Trung tâm Cấp cứu mỏ, cùng các học viên là quản đốc và phó quản đốc của các đơn vị sản xuất.

Thực hiện chỉ đạo của Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tại văn bản số 205/TB-TKV ngày 19/10/2016 Thông báo kết luận của Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải tại cuộc họp chấn chỉnh công tác AT-VSLĐ quí III năm 2016 yêu cầu triển khai thực hiện một số giải pháp đảm bảo an toàn vệ sinh lao động trong sản xuất. Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin được giao nhiệm vụ phối hợp với các Ban liên quan của Tập đoàn xây dựng đề cương “Chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng điều hành sản xuất, kỹ năng nhận biết, xử lý nguy cơ và giải pháp thoát hiểm trong quá trình khai thác mỏ”, dành cho đối tượng là quản đốc, phó quản đốc công trường, phân xưởng của các đơn vị thuộc TKV và đã được Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam phê duyệt tại quyết định số 2964/QĐ-TKV ngày 16/12/2016. Tiếp đó, thực hiện chỉ đạo của Giám đốc Trung tâm điều hành sản xuất tại Quảng Ninh, tại công văn số 808/TTĐHSX-AT ngày 22/12/2016, V/v “Tổ chức lớp bồi dưỡng kỹ năng nhận biết, xử lý nguy cơ và giải pháp thoát hiểm trong quá trình khai thác mỏ cho cán bộ chỉ huy cấp phân xưởng”. Sau một thời gian tích cực triển khai, đến nay, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ cùng các đơn vị liên quan đã hoàn thành công tác chuẩn bị lớp bồi dưỡng nói trên và hôm nay là lễ khai giảng.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin cùng Công ty Becker – Warkop Sp. Z o.o. (Ba Lan) khảo sát thực tế tại một số mỏ hầm lò

Trong 3 ngày, từ 14 đến 16/12/2016, một số cán bộ kỹ thuật Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã cùng chuyên gia Công ty Becker – Warkop Sp. Z o.o. (Ba Lan) và Công ty Âu Việt thực hiện chuyến khảo sát thực tế tại một số mỏ than hầm lò, Nam Mẫu, Vàng Danh và Khe Chàm.

Như tin đã đưa, ngày 13/12/2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã có buổi làm việc với Công ty Becker – Warkop Sp. Z o.o và Công ty Âu Việt. Nội dung chính, hai bên cùng quan tâm, đó là nghiên cứu lựa chọn áp dụng công nghệ hợp lý trong khai thác các vỉa dày, dốc của các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh.

Để có cơ sở triển khai, hai bên đã thống nhất chương trình khảo sát thực tế, tập hợp tài liệu địa chất, kỹ thuật cần thiết. Cụ thể, hai bên đã khảo sát tại Nam Mẫu, Vàng Danh, là những nơi có trữ lượng phân bố ở vỉa dày, dốc tương đối lớn, điều kiện áp dụng phức tạp và ở Khe Chàm, nơi đang áp dụng hiệu quả công nghệ khai thác cơ giới hóa đồng bộ vỉa dày thoải của TKV.

Như chúng ta đã biết, trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Tập đoàn, các mỏ than hầm lò đã triển khai áp dụng nhiều công nghệ khai thác có hàm lượng mức độ cơ giới hóa cao. Đối với các khu vực vỉa dày, dốc, đã triển khai áp dụng thành công các công nghệ mới, như chia lớp ngang nghiêng, phá nổ phân tầng, … gần đây là lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng giàn chống mềm. Thực tế,  việc áp dụng những công nghệ này đã đóng góp sản lượng tương đối lớn, năng suất lao động cũng như mức độ an toàn được nâng cao, giảm tổn thất than,… so với các công nghệ áp dụng trước đó.

Tuy nhiên, nhiều khu vực vỉa dày, dốc, các mỏ vẫn phải áp dụng công nghệ khai thác buồng, lò thượng xiên chéo, … với tổn thất than rất lớn và đặc biệt là mức độ an toàn rất hạn chế. Do đó, nhu cầu nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới để khai thác các khu vực vỉa này là cấp thiết. Trong chuyến khảo sát, đoàn công tác đã nhận được sự đón tiếp chân tình, cởi mở của lãnh đạo cũng như các cán bộ kỹ thuật mỏ của các đơn vị, các bên có cơ hội trao đổi kinh nghiệm trong khai thác than hầm lò nói chung và khai thác vỉa dốc nói riêng. Đồng thời Tại Nam Mẫu, với 2,5 triệu tấn trữ lượng ở các vỉa dày, dốc, Vàng Danh, trên 3,5 triệu tấn, các bên đã thống nhất, đây là những đối tượng cần nghiên cứu.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty Becker – Warkop Sp. Z o.o. (Ba Lan)

Ngày 13/12/2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty Becker – Warkop Sp. Z o.o. (Ba Lan).

Tham dự buổi làm việc, về phía Công ty Becker – Warkop Sp. Z o.o. có ông Wojciech Krzysztof Zasadni, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị, cùng các chuyên gia. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng, Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng và trưởng, phó một số phòng chuyên môn có liên quan. Tham dự buổi làm việc còn có đại diện Công ty Âu – Việt, ông, Giám đốc.

Tại buổi làm việc, Công ty Becker Warkop và Công ty CP Công nghiệp Âu Việt đã giới thiệu về một số thiết bị và giải pháp công nghệ khai thác vỉa dày dốc. Đồng thời các bên cùng thảo luận, trao đổi cụ thể về tính năng kỹ thuật, phạm vi áp dụng, những ưu, nhược điểm…của các thiết bị này cũng như khả năng áp dụng trong thực tế các mỏ hầm lò tại Việt Nam.

Theo kế hoạch, sau buổi làm việc hôm nay, trong những ngày tới, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin sẽ cùng Công ty Becker Warkop khảo sát thực tế tại Công ty than Vàng Danh, Công ty than Nam Mẫu và Công ty than Khe Chàm, làm cơ sở trong việc phát triển hợp tác giữa hai bên trong thời gian tới./.

Lãnh đạo Tập đoàn TKV kiểm tra tiến độ thực hiện Dự án Đầu tư khai thác hầm lò mỏ than Núi Béo

Ngày 06/12/2016, lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, ông Phạm Văn Mật, TV HĐTV, ông Khuất Mạnh Thắng, Phó Tổng Giám đốc đã kiểm tra tiến độ thực hiện Dự án đầu tư khai thác hầm lò mỏ Núi Béo. Tham gia đoàn kiểm tra có đại diện lãnh đạo các ban của TKV như ban ĐT, KCM, CV, TN; đại diện Chủ đầu tư, Công ty Cổ phần than Núi Béo; Nhà thầu thi công, Công ty Xây dựng mỏ hầm lò 1 và Nhà thầu tư vấn thiết kế, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ.

Tham dự chương trình làm việc của đoàn kiểm tra, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin là nhà thầu tư vấn, thiết kế của Dự án, có ông Trần Tú Ba, Viện trưởng và một số cán bộ có liên quan.

Sau khi đi kiểm tra hiện trường tại mặt bằng +20, cửa lò ngầm vận tải mức +20÷-50, lãnh đạo Tập đoàn đã làm việc với Chủ đầu tư, Nhà thầu tư vấn thiết kế và Nhà thầu thi công.

Đại diện Công ty Cổ phần than Núi Béo, ông Ngô Thế Phiệt – Giám đốc đã báo cáo tình hình thực hiện của Dự án. Theo đó, đến hết tháng 11/2016, khối lượng đào lò XDCB năm 2016 đạt 1.933,5m, bằng 104,5% kế hoạch; trong đó thuê ngoài 1.000,1m; tự làm 933,4m; lũy kế tổng số mét lò đào của toàn dự án đạt 3.483,5m; trong đó thuê ngoài 2.550,1m; tự làm 933,4m. Trong tháng 12/2016 sẽ tập trung thi công phần còn lại lò chợ 41101, khoanh vùng lò chợ 41102 và lò XV mức -50/-140 với tổng khối lượng 190m lò XDCB. Dự kiến năm 2016 thực hiện đào lò đạt 2.120m lò XDCB/KH 1.850, đạt 114,6% kế hoạch, trong đó thuê ngoài 1.045m; tự làm 1.075m. Kế hoạch năm 2017, dự kiến tháng 4/2017 lò chợ đầu tiên vỉa 11 sẽ được đưa vào khai thác và tháng 11/2017 sẽ đưa vào khai thác lò chợ số 2.

Đối với hệ thống thiết bị trục tải giếng phụ: Đến hết tháng 11/2016, lắp đặt xong cốt giếng; lắp đặt xong tuyến ống khí nén và ống cấp nước từ mức -350÷ -336; nhà trục giếng phụ lắp đặt xong toàn bộ kết cấu khung thép và đang triển khai lắp cầu trục 32/5 tấn. Dự kiến giữa tháng 1/2017 hoàn thiện cốt giếng, đường ống đường cáp và tháo dỡ hoàn thiện tháp tạm để bàn giao mặt bằng thi công tháp giếng và nhà trên miệng giếng phụ. Dự kiến tháng 7/2017 tời trục 1 cáp hoạt động, tháng 3/2018 hoàn thiện toàn bộ hệ thống thiết bị trục tải giếng đứng phụ. Đối với hạng mục nhà điều hành sản xuất bắt đầu thi công từ tháng 7/2016, dự kiến đến tháng 2/2017 hoàn thiện công trình. Đối với nhà nồi hơi và trạm phát điện điêzen, dự kiến tháng 2/2017 sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Viện GIG (Ba lan)

Ngày 20.10.2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Đoàn chuyên gia Viện GIG (Ba lan).

Tham dự buổi làm việc, về phía đoàn chuyên gia Viện GIG có Ông Cygankiewicz janusz, Maciej, trưởng phòng khí mỏ học, ông Krause Eugeniusz, Jozef, Phó giám đốc mỏ thực nghiệm Barbara, Trưởng phòng kiểm soát hiểm hoạ khí, cùng các chuyên gia. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin có TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng, TS. Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng, cũng các cán bộ liên quan.

Tại buổi làm việc, hai bên đã trao đổi thống nhất thời gian làm việc của đoàn các chuyên gia Ba Lan về chương trình đào tạo lý thuyết và và hướng dẫn thực hành phòng thí nghiệm than tự cháy tại Trung Tâm An toàn mỏ trong thời gian tới.Theo đó, trong 10 ngày tới, các chuyên gia Ba Lan sẽ tiến hành giảng dạy và hướng dẫn các cán bộ kỹ thuật của Trung tâm an toàn mỏ, Viện khoa học Công nghệ mỏ – Vinacomin thực hành các quy trình lắp đắt thiết bị trong phòng thí nghiệm, lấy mẫu khí tại mỏ, xác định nhiệt trị, thí nghiệm phát thải và sắc ký khí và các phương pháp Olpinskiego, xử lý các kết quả trong phòng thí nghiệm.

Kết quả buổi làm việc, là cơ sở để hai bên triển khai chương trình hợp tác trong thời gian tới.

Công trình của Phòng Nghiên cứu CNKT Hầm Lò được tuyên dương tại Festival “Sáng tạo trẻ” Thủ Đô năm 2016

Nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày truyền thống Hội LHTNVN, tối 12.10, tại Nhà văn hóa HS-SV (Hà Nội), Hội LHTNVN đã tổ chức lễ tuyên dương công trình, sản phẩm sáng tạo trẻ và các gương thanh niên tiêu biểu của thủ đô năm 2016.

Tại lễ tuyên dương, công trình “Nghiên cứu đề xuất giải pháp phá hỏa ban đầu hợp lý trong điều kiện đá vách khó điều khiển tại một số mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh” do TS. Lê Đức Nguyên chủ nhiệm, cùng nhóm tác giả phòng Nghiên cứu Công nghệ Khai thác Hầm lò đã được lựa chọn là một trong 11 công trình, sản phẩm sáng tạo tiêu biểu của Thủ Đô có ứng dụng cao vào thực tế lao động, sản xuất và được đánh giá có khả năng áp dụng hiệu quả vào đời sống kinh tế – xã hội.

Tại buổi tọa đàm, TS. Lê Đức Nguyên đã giới thiệu về giải pháp công nghệ đề xuất. Theo đó, trong điều kiện đá vách khó điều khiển, các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh vẫn đang lúng túng trong việc lựa chọn giải pháp phá hỏa ban đầu phù hợp. Kết quả nghiên cứu và ứng dụng của công trình là các giải pháp phá hỏa ban đầu hợp lý trong điều kiện đá vách khó điều khiển, sẽ giải quyết các khó khăn trong công tác điều khiển vách ban đầu, giúp lò chợ nhanh chóng đi vào khai thác thường kỳ, đảm bảo an toàn, hiệu quả.

Tập đoàn TKV: họp, triển khai thực hiện Dự án mở rộng nâng công suất mỏ than Na Dương

Ngày 7 tháng 9 năm 2016, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã có buổi làm việc về báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án mở rộng nâng công suất mỏ than Na Dương – Tổng Công ty Công nghiệp Mỏ Việt Bắc TKV – CTCP.

Tham dự buổi làm việc, về phía Tập đoàn TKV có ông Phạm Văn Mật, ông Vũ Thành Lâm, Thành viên HĐTV cùng đại diện các ban Đầu Tư (ĐT), Khoa học Công nghệ thông tin và Chiến lược phát triển (KCL), Điện Lực (ĐL), Cơ điện – Vận tải (CV)… Về phía chủ đầu tư có ông Trần Hải Bình, Tổng Giám đốc và các cán bộ có liên quan. Về phía đơn vị tư vấn có ông Lưu Văn Thực, Chủ nhiệm dự án, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin cùng các cán bộ có liên quan.
Dự án mở rộng nâng công suất mỏ than Na Dương – Tổng Công ty Công nghiệp Mỏ Việt Bắc TKV – CTCP đã được Bộ Công Thương thẩm định thiết kế cơ sở tại công văn số 6252/BCT-TCNL, ngày 11 tháng 7 năm 2016, với tổng mức đầu tư trên 800 tỷ đồng, thời gian xây dựng cơ bản khoảng 4 năm. Chủ đầu tư của dự án là Tổng Công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc – TKV – CTCP, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin là đơn vị tư vấn.

Mục tiêu của dự án là nhằm khai thác tối đa trữ lượng than bằng phương pháp lộ thiên, mở rộng và nâng công suất nhằm cung cấp đủ sản lượng than 1.200.000 tấn/năm cho hai nhà máy nhiệt điện Na Dương trong suốt quá trình hoạt động.

Tại buổi làm việc, về phía cơ quan tư vấn. TS. Lưu Văn Thực đã trình bày vắn tắt báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án với những nội dung chính như đặc điểm kinh kế – xã hội và điều kiện địa chất mỏ; hiện trạng khai thác mỏ; biên giới và trữ lượng khai trường; chế độ làm việc, công suất và tuổi thọ mỏ; các giải pháp về khai thác, tuyển than; sửa chữa cơ điện, kho tàng, hạ tầng kỹ thuật; bảo vệ môi trường, khôi phục môi sinh v.v.

Theo đó, đến nay, về công tác địa chất, mỏ than Na Dương đã được thăm dò tỷ mỷ, thăm dò bổ sung qua các giai đoạn. Tài liệu địa chất đã được Hội đồng đánh giá trữ lượng Quốc gia phê duyệt. Theo thống kê, tổng trữ lượng địa chất còn lại của mỏ khoảng 100 triệu tấn. Công tác mở vỉa sắp tới là tiếp tục duy trì và phát triển hệ thống hào mở, mở mỏ bằng đi hào bám vách. Trình tự khai thác được lựa chọn theo nguyên tắc đi xuống sâu dần đảm bảo ổn định bờ mỏ và các công trình phía trên, áp dụng hệ thống khai thác có vận tải, đổ thải bãi thải ngoài.…

Các ý kiến đóng góp cũng như chỉ đạo của lãnh đạo Tập đoàn tập trung vào các vấn đề như đền bù và giải phóng mặt bằng; đảm bảo đủ sản lượng than cung cấp cho các nhà máy điện khi chúng đi vào vận hành, đổ thải; xử lý nước thải; bảo vệ môi trường…

Chủ đầu tư và đơn vị tư vấn đã giải trình chi tiết những vấn đề được đặt ra và được sự đồng thuận của lãnh đạo Tập đoàn TKV cũng như các ban Liên quan.

Kết luận buổi làm việc, ông Phạm Văn Mật đã chỉ đạo các bên bổ sung, hoàn thiện báo cáo trước khi trình Hội đồng Thành viên của Tập đoàn thông qua, phê duyệt.

Một số hình ảnh tại buổi làm việc 

Bộ Công thương nghiệm thu đề tài, dự án thử nghiệm do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin thực hiện

Ngày 20/9/2016, Bộ Công thương đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu áp dụng công nghệ khai thác bằng giàn chống đối với các vỉa dày trung bình, độ dốc 35-55 độ ở các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh” và dự án sản xuất thử nghiệm: “Áp dụng công nghệ cơ giới hoá khai thác các vỉa than có độ dày đến 2,0m, dốc thoải đến nghiêng vùng Quảng Ninh”,  thuộc Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”.

Hội đồng khoa học và công nghệ cấp Nhà nước được thành lập theo Quyết định số 256/QĐ-BCT ngày 18/1/2016 và Quyết định số 480/QĐ-BCT ngày 1/2/2016 của Bộ Trưởng Bộ Công thương, gồm 9 thành viên, PGS.TS. Trần Xuân Hà, Chủ tịch, PGS. TS. Phùng Mạnh đắc, Phó Chủ tịch, ThS. Nguyễn Việt Cường, Uỷ viên Phản biện 1, PGS.TS. Trần Văn Thanh, Uỷ viên Phản biện 2. Hội nghị nghiệm thu còn có sự tham dự của ông Nguyễn Huy Hoàng, Phó vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ.

+ Đối với đề tài “Nghiên cứu áp dụng công nghệ khai thác bằng giàn chống đối với các vỉa dày trung bình, độ dốc 35-55 độ ở các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh”.

 Cơ quan chủ quản: Bộ Công Thươg

– Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

– Chủ nhiệm đề tài: ThS. Trần Tuấn Ngạn

Với mục tiêu lựa chọn công nghệ khai thác bằng giàn chống hợp lý đối với các vỉa dày trung bình, độ dốc 35-55 nhằm nâng cao mức độ an toàn và cải thiện điều kiện cho người lao động, đề tài đã hoàn thành các nội dung nghiên cứu bao gồm:

1. Đánh giá tổng hợp trữ lượng và đặc điểm điều kiện địa chất – kỹ thuật mỏ theo các yếu tố ánh hưởng đến công nghệ khai thác sử dụng giàn chống. Với tổng trữ lượng là 136.126 nghìn tấn.

2. Tổng hợp kinh nghiệm áp dụng công nghệ khai thác các vỉa dày trung bình, góc dốc 35-55 độ trong nước và nước ngoài; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn công nghệ khai thác sử dụng dàn chống và đề xuất 4 sơ đồ công nghệ khai thác sử dụng các loại dàn chống, với trữ lượng là 28.384 ngàn tấn, chiếm 20,8%.

+ Đối với trữ lượng lượng vỉa có chiều dày trung bình, góc dốc 35 <α≤450: áp dụng sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo phương, cơ giới hoá đồng bộ gương lò chợ xiên chéo hoặc ke theo hướng dốc vỉa, điều khiển đá vách bằng PHTP.

+ Đối với trữ lượng vỉa có chiều dày trung bình, góc dốc 45 <α≤550 : Áp dụng sơ đồ công nghệ khai thác cơ giới hoá đồng bộ sử dụng tổ hợp dàn chống 2ASNH điều khiển đá vách bằng PHTP và áp dụng sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo phương, sử dụng dàn chống mềm loại ZRY, điều khiển đá vách bằng PHTP.

3. Trên cơ sở các công nghệ đề xuất lựa chọn cho các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh, đề tài đã lựa chọn và thiết kế áp dụng thử nghiệm công nghệ khai thác cột dài theo phương, sử dụng dàn chống loại ZRY trong điều kiện vỉa 9b khu Tràng Khê II, Công ty than Hồng Thái. Qua quá trình theo dõi kết quả áp dụng thử nghiệm cho thấy, Công nghệ đã chó một số chỉ tiêu kỹ thuật, công suất lò chợ đạt 90 ngàn tấn/năm, năng suất lao động đạt 5,4tấn/công, tổn thất than 16,5% đảm bảo an toàn và mang lại hiệu quả kinh tế cho mỏ.

Trên cơ sở các kết quả đạt được của đề tài, Hội đồng khoa học công nghệ cấp Nhà nước đã thống nhất nghiệm thu, với kết quả đạt 90 điểm, xếp loại xuất sắc.

*  Đối với dự án sản xuất thử nghiệm : “Áp dụng công nghệ cơ giới hoá khai thác các vỉa than có độ dày đến 2,0m, dốc thoải đến nghiêng vùng Quảng Ninh”.