Tập đoàn TKV: Hội nghị về công tác vận tải trong mỏ hầm lò

Ngày 10/12/2015, tại Quảng Ninh, Tập đoàn TKV đã tổ chức Hội nghị kiểm điểm công tác vận tải trong các mỏ hầm lò.

Dưới sự chủ trì của Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải, tham dự Hội nghị có một số Thành viên HĐTV, ông Phạm Văn Mật, ông Vũ Thành Lâm, Lãnh đạo điều hành Tập đoàn, phó Tổng Giám đốc Vũ Anh Tuấn, cùng Lãnh đạo các Ban của Tập đoàn, CV, KCM, ĐT, KCL, AT, … Giám đốc các đơn vị khai thác than hầm lò, xây dựng mỏ, cơ khí, các đơn vị tư vấn.

Đoàn Viện Khoa học Công nghệ Mỏ tham dự Hội nghị có ông Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng, ông Nguyễn Đình Thống, Trưởng phòng Máy và Thiết bị mỏ.


Theo Báo cáo, do Trưởng Ban CV, Đinh Hữu Quyết trình bày trong cuộc họp, trong đó ghi nhận những kết quả đã đạt được trong thời gian qua:

1) Đối với công tác vận tải người trong hầm lò:

Tính đến thời điểm hiện nay, các đơn vị sản xuất than hầm lò đã đầu tư, lắp đặt và đưa vào sử dụng 134 hệ thống vận tải các loại, tăng so với thời điểm tháng 3/2015 là 17 hệ thống, bằng 114,5%. Cụ thể có 3 hệ thống trục tải thùng cũi ở giếng đứng; 16 hệ thống trục tải một đầu mút kết hợp toa xe chở người ở giếng nghiêng; 3 hệ thống tời cáp vô tận; 11 hệ thống monoray có đầu kéo chạy diezel và điện; 7 hệ thống cáp treo vô tận chở người, 54 hệ thống tời hỗ trợ người đi bộ và 39 hệ thống song loan, kéo bằng tầu điện ắc quy.

Đến nay, các đơn vị như Mông Dương, Hà Lầm, Vàng Danh, Mạo Khê đã đảm bảo không để công nhân đi bộ đến vị trí sản xuất quá 1000m. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn 7 đơn vị chưa thực hiện được điều này, đặc biệt qua các thượng thông gió, vận tải, chưa có thiết bị vận tải người, bao gồm Dương Huy, Thống Nhất, Nam Mẫu, Uông Bí, Hạ Long.

2) Đối với công tác vận tải than, vật tư, thiết bị:

– Vận tải than: Hiện nay, đa số các đơn vị sản xuất than hầm lò sử dụng hệ thống vận tải liên tục bằng máng cào, băng tải. Một số đơn vị vận tải than bằng đầu tầu, xe goòng.

– Vận tải đất đá: Trong đào lò, hầu hết các đơn vị đang sử dụng máy xúc lên goòng sau đó được tàu điện ắc quy kéo ra chân giếng, sử dụng tời trục kéo lên mặt bằng. Tại một số đơn vị, như Khe Chàm, Nam Mẫu, Hà Lầm đã áp dụng hệ thống vận tải liên tục để vận chuyển đất đá.

– Vận chuyển vật tư, thiết bị: Hầu hết các đơn vị đều dùng hệ thống tời trục, kết hợp với goòng, tích chuyên dùng, tàu điện ắc quy, tời kéo thuyền trượt trên nền lò, monoray thuyền trượt, kết hợp tời điện, hệ thống cáp treo. Tại Nam Mẫu, Hà Lầm và Quang Hanh dùng monoray với đầu tàu diezel, tời điện. Thời điểm hiện tại, một số đơn vị, như Khe Chàm, Mông Dương, Hà Lầm, Mạo Khê, không để công nhân vác bộ vật tư quá 30m.

Từ những đánh giá thực tế, Báo cáo kết luận:

1) Đối với các đơn vị khai thác than hầm lò, về cơ bản, đã triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Tổng Giám đốc TKV tại Thông báo kết luận số 48/TB-TKV về việc đầu tư lắp đặt thiết bị vận tải người, vật tư, thiết bị trong hầm lò. Tuy nhiên, còn một số tồn tại:

– Việc đầu tư trang thiết bị vận tải trong các dự án mở mỏ mới, mở rộng, duy trì công suất chưa kịp thời theo tiến độ đào lò. Vì vậy, vẫn còn tình trạng công nhân phải đi bộ, như ở Khe Chàm, Thống Nhất;

– Trong kế hoạch đào lò hàng năm của các đơn vị không kèm theo phương án vận tải người, vật tư, thiết bị để thiết kế đào lò có tiết diện phù hợp;

– Công tác chống xén đường lò và duy tu, bảo dưỡng hệ thống đường goòng chưa kịp thời, do vậy, chưa phát huy tối đa năng lực của hệ thống vận tải. Thực tế, hệ thống vận tải trên ray, nhiều đơn vị quy định tốc độ chỉ bằng 1/5 vận tốc cho phép.

2) Đối với các đơn vị tư vấn, cơ khí trong ngành:

– Các đơn vị tư vấn đã tìm hiểu một số hệ thống vận tải tiên tiến của nước ngoài để đưa vào thiết kế mỏ. Tuy nhiên, số lượng còn ít và chỉ phù hợp với những mỏ có lò chợ cơ giới hóa. Trong một số thiết kế chưa đề cập đến việc vận tải hỗn hợp trên cùng một đường lò và chưa đề cập việc vận chuyển người, vật tư, thiết bị tại các lò thượng, lò dọc vỉa trung gian.

– Các đơn vị cơ khí đã chế tạo một số thiết bị vận tải hầm lò. Tuy nhiên, loại hình còn hạn chế, chưa chủ động tìm hiểu thực tế để thiết kế, chế tạo thiết bị phù hợp. Một số đơn vị liên kết với nước ngoài để lắp ráp và bảo trì các hệ thống vận tải, nhưng chưa có kế hoạch cụ thể về công tác nội địa hóa.

Tiếp theo đó là các ý kiến tham luận của các thành viên tham dự, trong đó nêu lên những khó khăn trong việc triển khai áp dụng cơ giới hóa toàn bộ các loại hình vận tải, đồng thời cũng thể hiện quyết tâm trong thời gian tới, không để công nhân đi bộ quá 1000m, vác bộ vật tư quá 30m.

Phát biểu kết luận Hội nghị, Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải chỉ đạo các đơn vị cần phối hợp chặt chẽ với các Công ty tư vấn, các Ban của Tập đoàn, tăng cường hơn nữa việc áp dụng hiện đại hóa công tác vận tải trong lò, coi đây là nhiệm vụ không tách rời với mục tiêu hiện đại hóa khai thác nhằm nâng cao sản lượng, tăng năng suất lao động và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Đồng thời nhấn mạnh: “Về cơ bản công tác vận tải trong lò của ta đã có tiến bộ vượt bậc nhưng cần phải tăng cường áp dụng hơn nữa. Đây là dự án mang tính nhân văn sâu sắc nên các dự án đang triển khai phải đẩy nhanh tiến độ, xây dựng các mốc hoàn thành cụ thể. Các đơn vị chuẩn bị áp dụng cần nghiên cứu kỹ để áp dụng công nghệ vận tải phù hợp với từng đơn vị, phấn đấu tiến tới 100% các đơn vị vận tải than liên tục trong lò, không để người lao động đi bộ đến nơi làm việc trên 1000m hay mang vác vật tư, thiết bị trên 30m”./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin: Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở nhiệm vụ khoa học công nghệ

Ngày 7.12.2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu nhiệm vụ: “Triển khai áp dụng thí điểm hệ thống quản lý an toàn, quản lý rủi ro và kế hoạch ứng cứu khẩn cấp trong doanh nghiệp khai thác than lộ thiên theo quy định tại Thông tư số 43/2012/TT-BCT của Bộ Công Thương”. Đây là một trong những nhiệm vụ thuộc Chương trình Quốc gia về an toàn lao động, vệ sinh lao động giai đoạn 2011-2015.

Hội đồng khoa học công nghệ cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định số 459/QĐ-VKHCNM, ngày 25/11/2015, gồm 9 thành viên, TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng làm Chủ tịch, Phó Viện trưởng, TS. Lưu Văn Thực là Phó Chủ tịch, trực tiếp điều hành Hội nghị.

Năm 2014, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin được Bộ Công Thương giao thực hiện nhiệm vụ “Triển khai áp dụng thí điểm hệ thống quản lý an toàn, quản lý rủi ro và kế hoạch ứng cứu khẩn cấp trong doanh nghiệp khai thác than hầm lò theo quy định tại thông tư số 43/2012/TT-BCT của Bộ Công Thương”. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đạt được, năm 2015, Viện tiếp tục được Bộ Công Thương giao thực hiện nhiệm vụ: “Triển khai áp dụng thí điểm hệ thống quản lý an toàn, quản lý rủi ro và kế hoạch ứng cứu khẩn cấp trong doanh nghiệp khai thác than lộ thiên theo quy định tại Thông tư số 43/2012/TT-BCT của Bộ Công Thương” với mục tiêu triển khai áp dụng cụ thể vào một mỏ lộ thiên nhằm nâng cao mức độ an toàn và giảm thiểu tai nạn lao động trong khai thác than lộ thiên.

Với nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, Viện đã tập trung nghiên cứu một số nội dung cơ bản như: 1) Khảo sát, đánh giá hiện trạng hệ thống quản lý an toàn, quản lý rủi ro, kế hoạch ứng cứu khẩn cấp và an toàn khu vực sản xuất tại Công ty than Núi Béo – Vinacomin; 2) Tổ chức xây dựng hệ thống quản lý an toàn cho Công ty Cổ phần than Núi Béo; 3) Tổ chức xây dựng hệ thống và đánh giá rủi ro đối với các mối nguy của các lĩnh vực trong khai thác than lộ thiên Công ty Cổ phần than Núi Béo – Vinacomin; 4) Xây dựng kế hoạch ứng cứu khẩn cấp đối với các tình huống sự cố; 5) Xây dựng quy định an toàn khu vực sản xuất.

Quá trình áp dụng thí điểm cho thấy, Công ty Cổ phần than Núi Béo đã tuân thủ các nội dung theo quy định tại Thông tư số 43/2010/TT-BCT ngày 29/12/2010 của Bộ Công Thương. Các tài liệu về hệ thống quản lý an toàn, hệ thống quản lý rủi ro, kế hoạch ứng cứu khẩn cấp và quy định an toàn khu vực sản xuất đã được bổ sung, chỉnh sửa và triển khai rộng rãi đến các CBCNV trong toàn Công ty.

Tại Hội nghị, các thành viên trong Hội đồng nghiệm thu đã đóng góp nhiều ý kiến để các cán bộ thực hiện đề tài hoàn thiện Báo cáo tổng kết đề tài trước khi trình Hội đồng Khoa học công nghệ cấp Bộ Công Thương phê duyệt./.

Hội đồng khoa học cấp bộ kiểm tra sản phẩm, nghiệm thu đề tài do Viện KHCN Mỏ chủ trì thực hiện

Ngày 28/11/2015, tổ chuyên gia thuộc Hội đồng khoa học công nghệ cấp Bộ Công Thương đã kiểm tra “Dự án sản xuất  thử nghiệm đầu đo CH4 và CO nhằm thay thế thiết bị ngoại nhập”, thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm về công nghệ khai thác và chế biến khoáng sản, thực hiện Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”.

 Tổ chuyên gia được thành lập theo Quyết định số 9050/QĐ-BCT bao gồm PGS.TS Trần Xuân Hà, Chủ tịch,  PGS.TS Nguyễn Anh Nghĩa, Phản biện 1, TS. Lê Văn Thao, phản biện 2.

Như tin đã đưa, ngày 10/7/2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở Dự án này và nay, tổ chuyên gia kiểm tra các sản phẩm của dự án.

Tại buổi làm việc, Tổ chuyên giá đã tiến hành kiểm tra thiết bị, hệ thống quan trắc khí trên mặt bằng, lịch sử hoạt động của từng kênh đo và kiểm tra đầu đo tại khu vực vỉa 9 trong lò, thử nghiệm với khí chuẩn 2%, thử tác động liên động cắt điện. Các sản phẩm được kiểm tra bao gồm: 18 đầu đo SC-CH4 và 08 đầu đo SC-CO được lắp đặt thử nghiệm tại Công ty Than Dương Huy từ tháng 5/2014.

Qua kiểm tra cho thấy, sau 18 tháng lắp đặt, các thiết bị đầu đo đến nay vẫn hoạt động tốt, các chỉ số đo hiển thị chính xác nồng độ khí chuẩn, tín hiệu báo động được gửi tức thì khi có nồng độ khí vượt ngưỡng cho phép, giúp giám sát khí mỏ và đảm báo an toàn  cho các mỏ hầm lò tại Công ty Than Dương Huy. Tổ chuyên gia đã ghi nhận và có những đánh giá tích cực về các thiết bị của Dự án.

Kết quả kiểm tra thực tế là cơ sở để Hội đồng khoa học cấp Nhà nước nghiệm thu đề tài./.

Tập đoàn TKV: Hội nghị triển khai đảm bảo tiến độ và hiệu quả Dự án khai thác hầm lò mỏ Khe Chàm II – IV

Chiều ngày 24/11/2015, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã tổ chức Hội nghị triển khai đảm bảo tiến độ và hiệu quả Dự án khai thác hầm lò mỏ Khe Chàm II – IV.

Dưới sự chủ trì của Chủ tịch HĐTV Lê Minh Chuẩn, tham dự Hội nghị gồm có các Thành viên HĐTV, Phạm Văn Mật, Vũ Thành Lâm, Nguyễn Chiến Thắng, Phó Tổng Giám đốc Khuất Mạnh Thắng, cùng đại diện Lãnh đạo các Ban, Đầu tư, KCM, Tài nguyên của Tập đoàn. Về phía chủ đầu tư có Lãnh đạo Công ty than Hạ Long – Vinacomin, Giám đốc Bùi Đình Thanh, Phó Giám đốc Thọ, cùng một số cán bộ trong Ban Quản lý dự án. Về phía nhà thầu tư vấn, thiết kế, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, Viện trưởng Trần Tú Ba, Phó Viện trưởng Trương Đức Dư, cùng một số cán bộ tham gia thực hiện dự án. Tham dự Hội nghị còn có đại diện Công ty CP Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp – Vinacomin.


Theo trình bày của Lãnh đạo Viện Khoa học Công nghệ Mỏ và báo cáo của Công ty than Hạ Long tại Hội nghị, trên cơ sở có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, đưa ra phương án chi tiết và thống nhất giữa hai bên, trong đó, đã nêu rõ sự cần thiết triển khai ra than sớm, dự án ĐTXDCT mỏ Khe Chàm II-IV, với việc khai thông mức -225/-350, khu Khe Chàm I. Cụ thể, kế hoạch dài hạn đến năm 2020 do Tập đoàn TKV giao cho Công ty than Hạ Long, tại Chỉ thị số 178/CT – TKV ngày 16/9/2014, sản lượng hàng năm của Công ty sẽ tăng dần từ năm 2015 là 1.950.000 tấn đến năm 2020 là 4.300.000 tấn. Tuy nhiên, căn cứ hiện trạng các dự án mỏ đang thực hiện thì sản lượng than khai thác của Công ty sẽ giảm dần, từ năm 2017 là 1.745.000 tấn, đến năm 2021 còn 760.000 tấn. Như vậy việc điều chỉnh thiết kế, khai thông mức -225/-350, khu Khe Chàm I sẽ mở diện sản xuất và ra than sớm cho dự án (ra than từ năm 2017) là cần thiết và phù hợp với các quy định pháp lý hiện hành.

Triển khai giải pháp nói trên, thực hiện chủ trương của Tập đoàn, tại các văn bản số 238/TB-TKV ngày 26/11/2014, số 268/TB-TKV ngày 15/12/2014, số 2507/TKV-ĐT ngày 3/6/2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ phối hợp với Công ty than Hạ Long đã hoàn thành Thiết kế cơ sở bổ sung. Theo đó, Thiết kế cơ sở bổ sung này đã thể hiện ở ba điểm: Thứ Nhất, không phá vỡ quy hoạch tổng thể của dự án đã được duyệt, ranh giới khai trường, tầng khai thác, trữ lượng không thay đổi so với dự án đã được phê duyệt; thứ Hai, không thay đổi mục tiêu đầu tư, đầu tư xây dựng mới mỏ Khe Chàm II – IV khai thác bằng phương pháp hầm lò, nhằm nâng cao sản lượng khai thác than của Công ty than Hạ Long, đáp ứng nhu cầu than của nền kinh tế quốc dân, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển của ngành Than – Khoáng sản Việt Nam và thứ Ba, giúp ra than sớm, làm tăng hiệu quả của dự án, cụ thể, ra than sớm hơn so với kế hoạch trong thiết kế kỹ thuật 3 năm (theo kế hoạch năm 2021 mới ra than).

Sau khi lắng nghe ý kiến của các đồng chí Thành viên HĐTV Tập đoàn, các đồng chí Phó TGĐ, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, Công ty than Hạ Long… Chủ tịch HĐTV Lê Minh Chuẩn nhấn mạnh, khai thác hầm lò mỏ Khe Chàm II – IV là một trong những dự án trọng điểm của Tập đoàn, do đó, trong quá trình triển khai dự án, việc đưa ra những điều chỉnh về cách tiếp cận, các thiết kế cơ sở bổ sung… tiến tới một phương án tối ưu nhất để đảm bảo tiến độ và hiệu quả của dự án là rất cần thiết. Chủ tịch biểu dương tinh thần trách nhiệm và tính chủ động của Viện Kho học Công nghệ Mỏ, Công ty than Hạ Long và khẳng định HĐTV Tập đoàn sẽ xem xét và sớm thông qua thiết kế cơ sở bổ sung khai thông mức -225/-350 khu Khe Chàm I, Dự án Khe Chàm II – IV để đơn vị triển khai thực hiện./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin và Công ty Carboautomatyka ký Biên bản ghi nhớ Chương trình hợp tác thời gian tới

Như tin đã đưa, những ngày qua, Đoàn doanh nghiệp Ba Lan đã có chuyến công tác, làm việc và khảo sát thực tế tại một số đơn vị của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam.

Đoàn do ông Henryk Stabla, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Carboautomatyka làm trưởng đoàn đã làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin và khảo sát thực tế tại Công ty Cổ phần Cơ khí Mạo Khê, Công ty than Hà Lầm, Công ty than Quanh Hanh, Công ty Nhiệt điện Cẩm Phả,…

Kết thúc chuyến công tác, ngày 14/11/2015, trong buổi làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, hai bên đã ký Biên bản ghi nhớ về việc phối hợp trong nghiên cứu, sản xuất chế tạo các sản phẩm cơ khí – tự động hoá, phục vụ sản xuất ngành than – khoáng sản.

Trong đó, hai bên đã thống nhất một số nội dung hợp tác cụ thể, trong thời gian tới, Viện và Công ty Carboautomatyka: i) phối hợp với Công ty Elmech Kazenten, Công ty Fasing và Công ty Cơ khí Mạo Khê nghiên cứu khả năng hợp tác sản xuất động cơ điện phòng nổ sử dụng trong hầm lò, sản xuất máy bơm bùn, xích vòng, máng cào phục vụ cho khai thác mỏ; ii) phối hợp với Nhà máy Nhiệt điện Cẩm Phả nghiên cứu phương án xây dựng xưởng trộn, chế biến than cung cấp cho lò hơi, đảm bảo chất lượng than ổn định, hiệu quả đốt cao, giảm thiểu sự cố trong quá trình hoạt động; iii) tiếp tục hợp tác sản xuất tại Việt Nam các loại đầu đo khí ôxy, đầu đo khí hydro và đầu đo hạ áp khí; iiii) lập kho dự phòng các linh kiện thiết bị tại Viện Khoa học công nghệ mỏ – Vinacomin nhằm đáp ứng kịp thời công tác bảo dưỡng, bảo trì thiết bị của các hệ thống quan trắc đã được lắp đặt tại các mỏ…

Biên bản ghi nhớ là cơ sở để các bên triển khai các bước tiếp theo trong thời gian tới./.

Đoàn doanh nghiệp Ba Lan thăm và làm việc với Viện khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Ngày 9/11/2015, dưới sự chủ trì của Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam Khuất Mạnh Thắng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty Carboatomatyka và các công ty chế tạo thiết bị phục vụ cho hoạt động khai khoáng của Ba Lan.

Tham dự buổi làm việc, về phía đoàn doanh nghiệp Ba Lan có ông Henryk Stabla, Chủ tịch HĐQT Công ty Carboatomatyka, ông Zdzisław Bik M.Sc, Chủ tịch Tập đoàn Fasing, bà Beata Szafraniec, Phó chủ tịch Tập đoàn Elmech Kazeten cùng các chuyên gia. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng, TS. Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng, TS. Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng, cùng các cán bộ liên quan.

Tại buổi làm việc, TS. Trần Tú Ba Viện trưởng đã giới thiệu về quá trình xây dựng và phát triển của Viện và sự hợp tác của Viện với các đối tác Ba Lan trong những năm qua, trong việc thiết kế, cung cấp thiết bị lắp đặt các hệ thống cảnh báo khí mỏ tự động, kiểm soát, định vị nhân sự trong lò cho các mỏ than hầm lò trong tập đoàn; nghiên cứu chống cháy mỏ; đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm xác định tính tự cháy của than,…

Mới đây, Viện đã hợp tác với Công ty Carboatomatyka duy trì, bổ sung đầu đo cho 25 hệ thống quan trắc khí mỏ tại các mỏ hầm lò, hợp tác chế tạo, nội địa hoá tủ điều khiển KSP-2C, đầu đo CH4 và CO,… thiết kế, lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống tháo khí tại Công ty than Quang Hanh,…

Chủ tịch HĐTV Tập đoàn TKV Lê Minh Chuẩn kiểm tra và làm việc tại Công ty than Khánh Hoà – VVMI

Ngày 28/10/2015, Chủ tịch HĐTV Lê Minh Chuẩn kiểm tra và làm việc tại Công ty than Khánh Hoà – VVMI

Tham dự buổi làm việc, về phía Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam có Phó Tổng Giám đốc Khuất Mạnh Thắng, các ông trưởng, phó Ban Kỹ thuật, công nghệ mỏ, Ban Kế hoạch, Ban An toàn, Ban Đầu tư, Ban Tài nguyên, về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin có TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng, TS. Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng và các cán bộ liên quan.

Theo chương trình làm việc, Lãnh đạo Tập đoàn cùng đoàn công tác đã kiểm tra hiện trường khai thác hầm lò. Hiện tại, Công ty than Khánh Hoà – VVMI đang tổ chức khai thác than hầm lò khu vực rìa moong lộ thiên của mỏ. Sau hơn một năm thực hiện, bước đầu còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa chất phức tạp, than có tính tự cháy….

Sau khi kiểm tra hiện trường, Đoàn đã nghe ông Trần Hải Bình, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Công nghiệp Mỏ Việt Bắc – TKV báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh 9 tháng đầu năm, kế hoạch sản xuất quí IV năm 2015 và kế hoạch sản xuất năm 2016. Theo đó, 9 tháng đầu năm, Công ty than Khánh Hoà – VVMI đã gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó, bóc đất tại Khánh Hoà được hơn 2.000.000 m3 đạt 61% kế hoạch, bóc đất đá tại Quảng Ninh được hơn 1.000.000 m3 đạt 59% kế hoạch, khai thác được hơn 400 000 tấn than nguyên khai đạt 72% kế hoạch, trong đó than nguyên khai hầm lò được hơn 33.000 tấn đạt 61% kế hoạch, than tiêu thụ được gần 500.000 tấn đạt 67% kế hoạch.

Từ thực tế đó, tại buổi làm việc, Chủ tịch HĐTV Lê Minh Chuẩn đã chỉ đạo trong thời gian tới, Tổng Công ty Công nghiệp Mỏ Việt Bắc – TKV và Công ty than Khánh Hoà – VVMI cần chủ động phối hợp với Viện khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin trong lĩnh vực kỹ thuật công nghệ nhằm từng bước khắc phục khó khăn, nâng cao sản lượng khai thác hầm lò và đảm bảo an toàn trong sản xuất./.

Lãnh đạo Tập đoàn TKV kiểm tra tiến độ triển khai áp dụng thử nghiệm công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng dàn chống mềm ZRY tại Công ty than Hồng Thá

Ngày 22/10/2015, Lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã có buổi làm việc, kiểm tra tiến độ triển khai áp dụng thử nghiệm công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng giàn chống mềm ZRY tại Công ty than Hồng Thái.

Dưới sự chủ trì của Chủ tịch HĐTV Lê Minh Chuẩn, đoàn công tác có sự tham dự của ông Phạm Văn Mật, Thành viên HĐTV, ông Nguyễn Ngọc Cơ, Phó Tổng Giám đốc, Giám đốc Trung tâm Điều hành sản xuất tại Quảng Ninh, ông Khuất Mạnh Thắng Phó Tổng Giám đốc và Lãnh đạo, chuyên viên một số ban của Tập đoàn.

Đón tiếp đoàn, về phía Công ty than Hồng Thái, ông Nguyễn Quế Thanh, Giám đốc, các Phó Giám đốc Lê Hồng sơn và Đỗ Mạnh Cường, cùng lãnh đạo các phòng liên quan, về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, đơn vị tư vấn, thiết kế, chuyển giao công nghệ, ông Trần Tú Ba, Viện trưởng, ông Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng, cùng một số cán bộ trực tiếp thực hiện dự án.

Trong điều kiện địa chất, cấu trúc vỉa phức tạp, mỏ Hồng Thái đã triển khai áp dụng nhiều loại hình công nghệ, với mong muốn nâng cao mức độ cơ giới hóa các khâu công đoạn sản xuất. Có thể kể đến, công nghệ khai thác cột dài theo hướng dốc, cơ giới hóa đồng bộ, sử dụng dàn chống tự hành 2ANщA (1), lò chợ chia bậc chân khay, xiên chéo (2), … Tuy nhiên, các công nghệ trên, như công nghệ (1), với ưu điểm lớn nhất là đã áp dụng cơ giới hóa đồng bộ, từ khấu gương, chống lò, đến vận tải than … tuy nhiên, phạm vi áp dụng hạn chế, chỉ phù hợp trong điều kiện vỉa mỏng, ổn định chiều dày. Công nghệ (2), phạm vi áp dụng rộng hơn, nhưng các công đoạn chủ yếu thủ công, hạn chế về công suất khai thác, năng suất lao động, cũng như mức độ an toàn. Công nghệ khai thác lò chợ xiên chéo, chống giữ bằng dàn chống mềm ZRY phát huy được những ưu điểm, đồng thời khắc phục được những yếu điểm của các công nghệ nói trên, có thể áp dụng trong điều kiện vỉa than dày từ 1,6m đến 4,5m, dốc trên 45 độ, trong đó, với dàn chống ZRY, cơ bản đã cơ giới hóa được khâu chống giữ.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin nghiệm thu đề tài cấp cơ sở

Ngày 13/10/2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin tổ chức Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở đề tài: “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các cụm van điều khiển thủy lực chính nhằm thay thế hàng nhập khẩu”.

Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định số 303/QĐ – VKHCNM của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, gồm 7 thành viên, do TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng làm Chủ tịch.

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu thiết kế và công nghệ chế tạo 03 loại van điều khiển thủy lực chính sử dụng phổ biến trên các vì chống thủy lực tiến tới tự chủ sản xuất thay thế hàng nhập khẩu,xây dựng được tiêu chuẩn và quy trình kiểm định các loại vì chống sử dụng để chống giữ lò chuẩn bị trong các mỏ than hầm lò.

Các nội dung nghiên cứu của đề tài bao gồm:

1. Đánh giá tổng quan hiện trạng sử dụng hệ thống thủy lực trong thiết bị chống giữ khai thác than hầm lò, nhu cầu khả năng đáp ứng cho thị trường.

2. Nghiên cứu xây dựng yêu cầu kỹ thuật các loại van điều khiển thuỷ lực thông dụng sử dụng trong dàn chống.

3. Nghiên cứu thiết kế chế tạo 03 bộ các cụm van điều khiển thuỷ lực có tính năng điều khiển tương tự sản phẩm cùng loại nhập khẩu.

4. Lập qui trình công nghệ gia công, chế tạo các cụm van điều khiển thuỷ lực và tổ chức gia công chế tạo sản phẩm thử nghiệm.

5. Lắp đặt áp dụng thử nghiệm sản phẩm vào thực tế sản xuất, đánh giá và hoàn thiện sản phẩm.

Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học góp phần nâng cao năng lực thiết kế, kỹ thuật sản xuất thiết bị thủy lực phục vụ trong nghành máy mỏ đồng thời tạo điều kiện cho đơn vị sản xuất cơ khí trong ngành than tiếp cận công nghệ chế tạo sản phẩm kỹ thuật cao từ đó hiện đại hóa sản xuất cho đơn vị gia công chế tạo.

Hội đồng nghiệm thu cấp cơ sở nhất trí nghiệm thu đề tài. Đề tài tiếp thu các ý kiến đóng góp của các thành viên trong Hội đồng Khoa học công nghệ cấp cơ sở và hoàn thiện báo cáo tổng kết trình Tập đoàn nghiệm thu./.

Bộ Công Thương xét chọn đề tài khoa học công nghệ năm 2016 do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đề xuất thực hiện

Ngày 1.10.2015, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị xét chọn đề tài, nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp Bộ năm 2016 do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đề xuất thực hiện.

?

Hội đồng khoa học xét chọn đề tài khoa học công nghệ được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công thương, gồm 9 thành viên, do GS.TSKH. Lê Như Hùng, Bộ môn hầm lò, Khoa Mỏ, Trường Đại học Mỏ – Địa chất làm Chủ tịch.

Tại Hội nghị, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, đã trình bày mục tiêu, tính cấp thiết và nội dung chính của 10 đề tài, nhiệm vụ khoa học công nghệ mà Viện đề xuất trong một số lĩnh vực như khai thác hầm lò, lộ thiên, tuyển chế biến khoáng sản, chế tạo máy, thiết bị mỏ, cơ điện, tự động hoá mỏ, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, môi trường mỏ.

– Đối với lĩnh vực hầm lò, Viện đề xuất 03 đề tài bao gồm:

– “Nghiên cứu lựa chọn vật liệu chèn hợp lý trong công nghệ chèn lò phục vụ khai thác hầm lò vùng Quảng Ninh”. Thời gian thực hiện 12 tháng. Chủ nhiệm đề tài: TS. Đào Hồng Quảng

Mục tiêu:

Đề xuất được thành phần vật liệu chèn hợp lý trong công nghệ khai thác điều khiển vách bằng phương pháp chèn lò phục vụ công tác khai thác hầm lò nhằm bảo vệ các công trình trên mặt tại một số mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh.

Nội dung chính:

– Phân tích, đánh giá nguồn cung cấp vật liệu chèn tại một số mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh

– Nghiên cứu tính chất cơ lý của vật liệu chèn và khả năng bảo vệ bề mặt địa hình.

– Nghiên cứu đề xuất thành phần vật liệu chèn hợp lý trong công nghệ khai thác chèn lò tại một số mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh.

– Thiết kế giải pháp công nghệ chèn lò cho một điều kiện mỏ cụ thể.

– “Nghiên cứu tính toán, thiết kế các vì chống để chống giữ các đường lò tiết diện lớn bằng vì chống thép chữ V trong các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh”. Thời gian thực hiện 12 tháng. Chủ nhiệm đề tài: Lê Văn Công

Mục tiêu:

Thay thế vì chống lò tiết diện lớn hiện tại bằng loại kết cấu chống phù hợp đảm bảo khả năng chịu lực và thuận tiện trong thi công.

Nội dung chính:

– Hiện trạng chống giữ các đường lò tiết diện lớn tại các mỏ vùng Quảng ninh.

– Đánh giá mức độ áp lực xuất hiện trong các dạng đường lò này.

– Nghiên cứu, tính toán, thiết kế vì chống thép tiết diện chữ V đối với đường lò diện tích tiết diện (20-40m2) tại các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh.

– “Nghiên cứu lựa chọn phương pháp khoan nổ mìn tạo biên nhằm giảm hệ số thừa tiết diện khi thi công giếng đứng chống bằng vỏ chống bê tông liền khối trong điều kiện các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh”. Thời gian thực hiện 12 tháng. Chủ nhiệm đề tài: TS. Trịnh Đăng Hưng

Mục tiêu:

Giảm hệ số thừa tiết diện, giảm chi phí bê tông liền khối cho vỏ chống, nâng cao hiệu quả nổ mìn khi thi công giếng đứng mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh.

Nội dung chính:

– Đánh giá hiện trạng thi công khoan nổ mìn giếng đứng vùng Quảng Ninh.

– Phân tích đánh giá các nhóm yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới hệ số thừa tiết diện và hiệu quả khoan nổ mìn.

– Nghiên cứu các phương pháp nổ mìn tạo biên trong các điều kiện đất đá khác nhau nhằm giảm hệ số thừa tiết diện, nâng cao được hiệu quả khoan nổ mìn và giảm chi phí vỏ chống bê tông liền khối.

– Đề xuất các giải pháp kỹ thuật công nghệ thích hợp nhằm giảm hệ số thừa tiết diện, giảm chi phí vỏ chống bê tông liền khối cho các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh.

– Đối với lĩnh vực khai thác lộ thiên, Viện đề xuất 02 đề tài:

– “Nghiên cứu công nghệ bóc đất đá hợp lý đối với các bờ trụ mỏ lộ thiên bị trượt lở đảm bảo an toàn cho các công trình trên mặt’’. Thời gian thực hiện 12 tháng. Chủ nhiệm đề tài: TS. Lưu Văn Thực

Mục tiêu:

– Lựa chọn công nghệ bóc đất bờ trụ hợp lý, nhằm nâng cao ổn định bờ mỏ và an toàn cho các công trình trên mặt.

Nội dung chính:

– Tổng quan về Công nghệ khai thác đối với các khu vực bờ mỏ bị trượt lở;

– Nghiên cứu, phân tích điều kiện tự nhiên và kỹ thuật ảnh hưởng đến quá trình khai thác ở các khu vực bờ trụ mỏ lộ thiên bị trượt lở.

– Nghiên cứu các công nghệ khai thác có thể áp dụng đối với các khu vực bờ mỏ trượt lở.

– Lựa chọn công nghệ khai thác hợp lý đối với các khu vực bờ trụ bị trượt lở.

– Tính toán thử cho 1 mỏ cụ thể

– “Nghiên cứu khả năng áp dụng công nghệ vận tải đất đá bằng băng tải dốc cho các mỏ than lộ thiên Việt Nam”. Thời gian thực hiện 12 tháng. Chủ nhiệm đề tài: ThS. Đỗ Ngọc Tước

Mục tiêu:

Giảm chi phí sản xuất tăng hiệu quả khai thác mỏ

Nội dung chính:

– Khảo sát, đánh giá tình hình vận tải đất đá tại các mỏ than lộ thiên Việt Nam

– Tổng quan kinh nghiệm sử dụng băng tải dốc các mỏ lộ thiên sâu có điều kiện tương tự

– Nghiên cứu các yếu tố tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế ảnh hưởng tới công nghệ vận tải bằng băng tải dốc tại các mỏ than lộ thiên

– Nghiên cứu khả năng sử dụng công nghệ vận tải đất đá bằng băng tải dốc cho các mỏ than lộ thiên Việt Nam

– Tính toán thử cho mỏ Khánh Hòa.

– Đối với lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Viện đề xuất 01 đề tài:

– “Nghiên cứu thiết kế chế tạo bộ điều khiển tự động tốc độ băng tải theo tải thực tế tại các dây chuyển tuyển và nhà máy tuyển’’. Thời gian thực hiện 12 tháng. Chủ nhiệm đề tài: ThS Vũ Thế Nam

Mục Tiêu:

Đề xuất giải pháp tự động hóa điều khiển tốc bộ băng tải theo tải thực tế nhằm tiết kiệm điện.

Nội dung chính:

– Nghiên cứu tổng quan công nghệ điều khiển tự động tuyến băng tải trong và ngoài nước;

– Nghiên cứu đánh giá tiềm năng tiết kiệm năng lượng tại các tuyến băng tải tại nhà máy tuyển và dây chuyền tuyển trong tập đoàn TKV;

– Nghiên cứu đề xuất giải pháp và thiết kế chế tạo bộ điều khiển tự động tốc độ băng tải theo tải thực tế cho một tuyến băng trong Tập đoàn TKV;

– Nghiên cứu đánh giá kết quả thử nghiệm bộ điều khiển tự động tốc độ băng tải theo tải thực tế tại hiện trường. Phân tích hiệu quả kinh tế mang lại.

– Đối với lĩnh vực cơ điện, tự động hoá mỏ, Viện đề xuất 01 đề tài:

-“Nghiên cứu thiết kế, chế tạo đầu đo khí SC-CO2; SC-O2 và SC-H2 nhằm thay thế các thiết bị nhập ngoại’’. Thời gian thực hiện 12 tháng.

Mục tiêu:

Chế tạo đầu đo SC-CO2; SC-O2 và SC-H2 thế đầu đo nhập ngoại nhằm giảm chi phí đầu tư cho các mỏ than hầm lò của TKV.

Nội dung chính:

– Nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng đầu đo khí SC-CO2; SC-O2 và SC-H2 ở trong và ngoài nước.

– Nghiên cứu lựa chọn giải pháp chế tạo đầu đo khí SC-CO2; SC-O2 và SC-H2 thay thế sản phẩm nhập ngoại và tương thích với các hệ thống đo khí tự động hiện tại được lắp đặt ở các mỏ than hầm lò của TKV.

– Thiết kế, chế tạo, kiểm định, chạy thử thiết bị.

– Đánh giá độ chính xác, khả năng tương thích với các hệ thống đo khí tự động đã được lắp đặt ở TKV.

– Đối với lĩnh vực chế tạo máy, thiết bị mỏ, Viện đề xuất 01 đề tài:

– “Nghiên cứu thiết kế, lập bản vẽ chế tạo thiết bị cơ giới phục vụ lắp đặt vì chống nhằm nâng cao tốc độ đào lò xây dựng cơ bản’’. Thời gian thực hiện 12 tháng. Chủ nhiệm đề tài: TS. Tạ Đình Hùng

Mục tiêu:

Thiết kế thiết bị cơ giới hóa phục vụ công tác lắp đặt vì chống nhằm tăng năng suất và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động trong công tác đào lò xây dựng cơ bản.

Nội dung chính:

– Nghiên cứu tổng quan tình hình sử dụng thiết bị và công tác đào lò xây dựng cơ bản.

– Nghiên cứu sơ đồ nguyên lý và thiết kế tính toán.

– Lập bản vẽ chế tạo chế tạo thiết bị cơ giới phục vụ lắp đặt vì chống.

– Đối với lĩnh vực tuyển, chế biến than, khoáng sản, Viện đề xuất 01 đề tài:

– “Nghiên cứu công nghệ tuyển than don xô vùng Quảng Ninh bằng thiết bị tuyển xoáy lốc huyền phù 3 sản phẩm”. Thời gian thực hiện 12 tháng.

Mục tiêu:

– Nâng cao chất lượng than don xô, tận thu tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Nội dung chính:

– Tổng quan về tình hình nghiên cứu và áp dụng xoáy lốc huyền phù 3 sản phẩm để xử lý than trên thế giới và ở Việt Nam.

– Nghiên cứu đặc tính than don xô tại một số mỏ than vùng Quảng Ninh.

– Chế tạo và lắp đặt dây chuyền tuyển xoáy lôc huyền phù 3 sản phẩm quy mô thí nghiệm.

– Thí nghiệm tuyển than don xô trên dây chuyền tuyển xoáy lốc huyền phù 3 sản phẩm

– Tính toán xây dựng một dây chuyền tuyển nâng cao chất lượng than don xô bằng xoáy lốc huyền phù 3 sản phẩm tại một mỏ cụ thể ở vùng Quảng Ninh.

– Đối với lĩnh vực môi trường mỏ, Viện đề xuất 01 đề tài:

– “Nghiên cứu ứng dụng chế phẩm nano sắt để xử lý nước thải có hàm lượng kim loại nặng cao”. Thời gian thực hiện 12 tháng. Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Quốc Thịnh

Mục tiêu:

Đánh giá khả năng và đề xuất được công nghệ ứng dụng chế phẩm nano sắt để xử lý kim loại nặng trong nước thải từ chế biến khoáng sản.

Nội dung chính:

– Tổng quan về ứng dụng công nghệ – kỹ thuật nano xửa lý nước thải có tính axit, hàm lượng kim loại năng cao ở trong nước và trên Thế giới.

– Khảo sát thực trạng nước thải và công nghệ xử lý nước thải trong các nhà máy luyện đồng chì kẽm.

– Nghiên cứu ứng dụng và đề xuất các giải pháp công nghệ, kỹ thuật sử dụng chế phẩm nano để xử lý nước thải có tính axit mạnh, hàm lượng kim loại nặng cao.

Hội đồng khoa học đã thống nhất trình Lãnh đạo Bộ Công Thương tuyển chọn các đề tài được đề xuất nêu trên.

Đánh giá chứng nhận hệ thống quản lý năng lượng ISO 50001:2011 tại Công ty CP than Hà Lầm

Thực hiện nhiệm vụ Tập đoàn TKV giao theo Công văn số 1919/VINACOMIN-KCL ngày 15/04/2013 v/v: “Xây dựng thí điểm mô hình quản lý Năng lượng theo ISO 50001:2011”, trong 03 ngày, từ 14 đến 16 tháng 09 năm 2015,Viện Khoa học Công nghệ Mỏ -Vinacomin đã phối hợp cùng đoàn đánh giá của tổ chức TUVNORD tổ chức đánh giá chứng nhận hệ thống quản lý năng lượng ISO 50001:2011 áp dụng cho khu vực Văn phòng và Phân xưởng sàng 28 tại Công ty Cổ phần than Hà Lầm – Vinacomin.

Qua thời gian đánh giá chứng nhận cho thấy, Công ty Cổ  phần than Hà Lầm-Vinacomin đã xây dựng và áp dụng vận hành hệ thống quản lý năng lượng theo đúng các điều kiện tiêu chuẩn hệ thống quản lý năng lượng ISO 50001:2011 tại khu Văn phòng và phân xưởng Sàng 28. Cụ thể, Công ty đã xây dựng được chính sách năng lượng, mục tiêu và nội quy sử dụng hiệu quả năng lượng, các quy trình vận hành hệ thống quản lý năng lượng ISO 50001:2011, phổ biến tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty về tiết kiệm năng lượng đi cùng với đó là thành lập ban ISO năng lượng để luôn duy trì chu trình P-D-C-A hệ thống quản lý năng lượng cũng như thúc đẩy các hoạt động cải tiến tiết kiệm năng lượng. Cũng theo kết quả đánh giá, đã ghi nhận những kết quả ban đầu đạt được của Công ty tại 02 khu vực này theo mục tiêu tiết kiệm năng lượng đặt ra là : 1,25% /năm cho toàn bộ nhà sàng 28 (trong đó mục tiêu cho các SEUs là từ 9-10%), 025% /năm cho toàn bộ khu Văn phòng (trong đó mục tiêu cho các SEUs là 2%)

Bộ Công Thương nghiệm thu đề tài KHCN do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin chủ trì thực hiện

Ngày 10/9/2015, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu đề tài: “Nghiên cứu áp dụng công nghệ chèn lò khai thác than trong các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh”, thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm về công nghệ khai thác và chế biến khoáng sản, thực hiện Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”.

Hội đồng KHCN được thành lập theo Quyết định số 83/ QĐ- BCT ngày 7/1/2015 của Bộ trưởng Bộ Công Thương, gồm 9 thành viên, PGS.TS. Trần Xuân Hà, Chủ tịch hội đồng.

Theo báo cáo tổng kết, đề tài đã thực hiện các nội dung nghiên cứu:

1) Đánh giá tổng hợp trữ lượng và đặc điểm điều kiện địa chất – kỹ thuật mỏ các khu vực cần chèn lò vùng Quảng Ninh. Với tổng trữ lượng than cần chèn lò khoảng 132 triệu tấn, tập trung ở Hà Lầm, 56,8 triệu tấn, Núi Béo, 28,5 triệu tấn, Mạo Khê 27,6 triệu tấn, Khe Chàm, Vàng Danh và Mông Dương. Trong đó, tập trung chủ yếu vào các vỉa dày, trữ lượng khoảng 102 triệu tấn (chiếm 77,2%), vỉa dày trung bình, 17,4 triệu tấn (13,2%) và vỉa mỏng, 12,7 triệu tấn (9,6%). Vỉa góc dốc thoải, khoảng 25,7 triệu tấn (19,5%), vỉa nghiêng 54,3 triệu tấn (41,1%), vỉa dốc nghiêng 30,7 triệu tấn (23,2%) và vỉa dốc đứng là 21,3 triệu tấn (16,1%);

2) Tổng hợp kinh nghiệm áp dụng chèn lò trên thế giới. Theo đó, các phương pháp chèn lò thường được áp dụng, bao gồm: Chèn lò tự cháy, chèn lò cơ khí, chèn lò thủy lực, chèn lò khí nén và chèn lò hỗn hợp;

3) Đề xuất một số sơ đồ công nghệ khai thác điều khiển đá vách bằng phương pháp chèn lò cùng các giải pháp kỹ thuật công nghệ chèn lò phù hợp với đặc điểm địa chất – kỹ thuật mỏ của các khu vực cần chèn cũng như phù hợp với tính chất của các công trình bề mặt cần bảo vệ thuộc vùng Quảng Ninh;

4) Để áp dụng các đề xuất vào thực tế, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã phối hợp với Công ty than Mạo Khê – TKV lựa chọn áp dụng thử nghiệm công nghệ tại vỉa 9B, mức – 80/LV khu vực Cánh Nam. Đồng thời thiết kế áp dụng thử nghiệm công nghệ khai thác điều khiển đá vách bằng chèn lò cho điều kiện khu vực này. Khu vực áp dụng thử nghiệm có đặc điểm vỉa than dày, dốc (dày trung bình 6,9m, góc dốc trung bình 650) được chuẩn bị và khai thác theo sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo độ dốc, chia lớp ngang nghiêng, khai thác và chèn lò theo trình tự từ dưới lên, sử dụng phương pháp chèn lò thủy lực. Vật liệu chèn sử dụng là tro đáy nhà máy nhiệt điện Mạo Khê hòa trộn với nước theo tỷ lệ vật liệu chèn: nước là 1:4.

 

Tuy nhiên, do một số điều kiện khách quan, nên việc áp dụng thử nghiệm công nghệ chưa được triển khai. Trên cơ sở các kết quả đã đạt được của đề tài do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ thực hiện, Hội đồng khoa học Công nghệ cấp Nhà nước đã nghiệm thu các kết quả nghiên cứu của đề tài./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Đoàn doanh nghiệp Trung Quốc

Ngày 21/8/2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Đoàn doanh nghiệp các công ty sản xuất thiết bị phục vụ khai thác khoáng sản (Trung Quốc).

Tham dự buổi làm việc, về phía Đoàn doanh nghiệp Trung Quốc có ông Liễu Tương, Giám đốc Kinh doanh, ông Tần Vũ, Giám đốc phụ trách kỹ thuật, Công ty Bơm Giai Năng Trường Sa, bà Vương Kiều, Giám đốc Công ty Thương Mại Phong Nguyên, về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin có ông Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng cùng cán bộ nghiên cứu của các phòng liên quan, tham dự buổi làm việc còn có đại diện Công ty Cổ phần Du lịch – Thương mại – Vinacomin.

????????????????????????????????????

Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường công nghiệp – Bộ Công Thương kiểm tra giữa kỳ việc thực hiện nhiệm vụ KHCN năm 2015

Ngày 7/8/2015, Đoàn cán bộ Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường công nghiệp – Bộ Công Thương đã có buổi làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin để kiểm tra tiến độ thực hiện nhiệm vụ “Triển khai áp dụng thí điểm hệ thống quản lý an toàn, quản lý rủi ro và kế hoạch ứng cứu khẩn cấp trong doanh nghiệp khai thác than lộ thiên” theo quy định tại Thông tư số 43/2010/TT-BCT, ngày 29/12/2010 của Bộ Công Thương.

Tham dự buổi làm việc, về phía Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường Công nghiệp – Bộ Công Thương có ông Tô Xuân Bảo, Phó Cục trưởng, Trưởng đoàn; bà Cung Thị Hạnh, Trưởng phòng Tài chính Kế toán; bà Vũ Thị Ngọc Trà, chuyên viên; bà Nguyễn Thị Thùy Vân, chuyên viên. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, có ông Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng cùng một số cán bộ Phòng Nghiên cứu Công nghệ Khai thác Lộ thiên, Phòng Kế toán.

Trong buổi làm việc, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã báo cáo về tình hình và tiến độ thực hiện nhiệm vụ. Theo đó, trong thời gian qua Viện đã thực hiện một số công việc như:

– Tổ chức xây dựng hệ thống quản lý an toàn cho 01 công trường khai thác than lộ thiên.

+ Biên soạn tài liệu về hệ thống quản lý an toàn.

– Đánh giá rủi ro đối với các mối nguy của một bộ phận sản xuất độc lập thuộc đơn vị khai thác than lộ thiên:

+ Phân tích, đánh giá rủi ro đối với từng công đoạn sản xuất bao gồm: Khoan lỗ mìn; nổ mìn; xúc bốc; vận tải; thải đất đá; thoát nước mỏ; sàng tuyển than; sửa chữa thiết bị.

– Xây dựng kế hoạch ứng cứu khẩn cấp đối với các tình huống sự cố:

+ Biên soạn tài liệu về kế hoạch ứng cứu khẩn cấp tại đơn vị áp dụng thí điểm.

– Xây dựng quy định an toàn khu vực sản xuất:

+ Biên soạn tài liệu về quy định an toàn khu vực sản xuất.

Qua kiểm tra thực tế, đoàn cán bộ Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường Công nghiệp – Bộ Công Thương đã ghi nhận những kết quả mà Viện đã thực hiện trong năm 2015, đáp ứng yêu cầu cả về nội dung cũng như thời gian thực hiện./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Viện Giproshakht (Liên bang Nga)

 Ngày 3/8/2015, dưới sự chủ trì của TS. Trần Tú Ba, Viện Trưởng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin đã có buổi làm việc với Viện Giproshakht – Liên bang Nga về vấn đề thiết kế các mỏ hầm lò khai thác than và khoáng sản.

Tham dự buổi làm việc, về phía Viện Giproshakht có ông Travin. A.V, Chuyên gia xây dựng mỏ, ông Petrov Dmitry, Chuyên gia khai thác mỏ. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, có ông Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng cùng một số cán bộ các phòng ban liên quan, Phòng Tư vấn Đầu tư, Phòng Quan hệ & HTQT.

Trong buổi làm việc, hai bên đã thảo luận về các vấn đề liên quan đến các giải pháp thiết kế các hạng mục của hệ thống giếng đứng mỏ than hầm lò Khe Chàm II-IV và Núi Béo.

Viện Giproshakht là một trong những Viện nghiên cứu đầu ngành của Liên bang Nga về lĩnh vực khai thác khoáng sản, đã có thời gian hợp tác lâu dài với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ. Tại buổi làm việc, hai bên đã trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm về các vấn đề liên quan đến thiết kế mỏ hầm lò than và khoáng sản nói chung và vấn đề thiết kế giếng đứng nói riêng./.

Viện KHCN Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty Hữu hạn Công trình Hoa Vũ Bắc Kinh

Ngày 30.7.2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty Hữu hạn công trình Hoa Vũ Bắc Kinh (Trung Quốc) về việc xây dựng hệ thống định vị nhân sự – điều độ tập trung trong hầm lò.

Tham dự buổi làm việc, về phía Công ty Hữu hạn công trình Hoa Vũ Bắc Kinh có ông Zhou Wei – Phó Ban hợp tác quốc tế, ông Li Zhi Gang – Trưởng phòng công nghệ khai thác hầm lò cùng một số chuyên gia ông Zhang Jiang và ông Cheng Yong Hua. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, có ông Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng và các cán bộ Nghiên cứu Điện – Tự động hóa.

Trong buổi làm việc, Viện KHCN Mỏ đã nêu thực trạng về ứng dụng hệ thống kiểm soát nhân sự, điều độ tập trung tại các mỏ khai thác than hầm lò ở Việt Nam. Nhìn chung, các hệ thống này còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu về quản lý và điều hành sản xuất. Viện KHCN Mỏ cũng đưa ra các yêu cầu để xây dựng hệ thống với các tính năng kiểm soát nhân sự, thông tin liên lạc và điều độ tập trung cho các mỏ khai thác than hầm lò Việt Nam.

Công ty Hữu hạn Công trình Hoa Vũ Bắc Kinh trình bày về các giải pháp của Công ty để thực hiện hệ thống trên cũng như các giải pháp thực hiện tự động hóa trong quá trình khai thác than hầm lò. Về cơ bản, các hệ thống này đã đáp ứng được yêu cầu của Viện đề ra.

Qua trao đổi, hai bên thống nhất các nội dung phối hợp trong thời gian  tới  như sau:

1. Xây dựng hệ thống kiểm soát nhân sự, thông tin liên lạc và điều độ tập trung trong hầm lò

2. Hợp tác trong triển khai ứng dụng công nghệ tự động hóa trong ngành mỏ Việt Nam như: Tự động hóa hầm bơm; điều khiển, giám sát hệ thống điện năng…

Kết quả của chương trình làm việc là cơ sở để hai bên phối hợp triển khai các nội dung trong lĩnh vực tự động hóa cho ngành khai thác than Việt Nam.

Viện KHCN Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty CP đồng Tả Phời – Vinacomin và Công ty TNHH 1 TV Tư vấn Đầu tư Xây dựng Công nghiệp Mỏ – Luyện kim

Ngày 24.7.2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty Cổ phần đồng Tả Phời – Vinacomin và Công ty TNHH 1 TV Tư vấn Đầu tư Xây dựng Công nghiệp Mỏ – Luyện kim về việc hoàn thiện thiết kế bản vẽ thi công – Dự toán Dự án đầu tư xây dựng công trình khai thác mỏ đồng Tả Phời.

Tham dự cuộc họp, về phía Công ty Cổ phần đồng Tả Phời – Vinacomin có ông Nguyễn Anh Tú, Phó Giám đốc và các cán bộ liên quan, về phía Công ty TNHH 1 TV Tư vấn Đầu tư Xây dựng Công nghiệp Mỏ – Luyện kim có bà Nguyễn Thị Hồng Gấm, Giám đốc và các cán bộ liên quan, về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, có ông Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng và các cán bộ liên quan.

Nhằm khai thác hiệu quả, đáp ứng một phần tinh quặng cho Nhà máy luyện đồng Lào Cai, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã phối hợp với Công ty Cổ phần đồng Tả Phời lập “Dự án đầu tư xây dựng công trình khai thác mỏ đồng Tả Phời”  lập Thiết kế bản vẽ thi công – dự toán của Dự án khai thác mỏ, triển khai các hạng mục đầu tư vào thực tế sản xuất, đáp ứng yêu cầu cung cấp quặng nguyên khai cho Nhà máy tuyển đồng Tả Phời và cung cấp quặng tinh cho tổ hợp Nhà máy luyện đồng Lào Cai.

Tại cuộc họp, các bên đã xem xét các nội dung của Thiết kế bản vẽ thi công – Dự toán: công trình khai thác mỏ đồng Tả Phời.

Sau khi trao đổi, thảo luận, các bên đã thống nhất hoàn thiện một số nội dung của Thiết kế bản vẽ thi công – Dự toán Dự án đầu tư xây dựng công trình khai thác mỏ đồng Tả Phời, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin sẽ hoàn thiện thiết kế và trình Chủ đầu tư phê duyệt./.

Tập đoàn TKV nghiệm thu kết quả thực hiện đề tài “Nghiên cứu, Thiết kế giải pháp xử lý trượt lở đảm bảo an toàn cho bờ trụ Nam mỏ than Đèo Nai”

Ngày 16.7. 2015, Hội đồng Khoa học Công nghệ Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam đã tổ chức đánh giá nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu, Thiết kế giải pháp xử lý trượt lở đảm bảo an toàn cho bờ trụ Nam mỏ than Đèo Nai”.

Hội đồng nghiệm thu cấp Tập đoàn được thành lập theo quyết định số10/QĐ-TKV ngày 07 tháng 01 năm 2015 của TKV gồm 9 thành viên do Ông Khuất Mạnh Thắng, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn làm Chủ tịch.

Để bờ trụ Nam mỏ than Đèo Nai ổn định và an toàn cho quá trình khai thác đến kết thúc, đáp ứng yêu cầu sản lượng theo thiết kế, Tập đoàn Công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam đã giao cho Viện Khoa học Công nghệ Mỏ phối hợp Công ty Cổ phần than Đèo Nai cho triển khai thực hiện đề tài: “Nghiên cứu, thiết kế giải pháp xử lý trượt lở đảm bảo an toàn cho bờ Trụ Nam mỏ than Đèo Nai”.

Từ kết quả nghiên cứu, khảo sát hiện trạng biến dạng, cơ chế và nguyên nhân trượt lở của bờ trụ Nam, đề tài đã đề xuất 4 giải pháp xử lý trượt lở bao gồm: 1) Gia cường khối đá bằng bê tông phun; 2) Gia cường khối đá và các mặt yếu bằng giải pháp xi măng hoá sâu; 3) Gia cường mái dốc bằng neo; 4) Điều khiển ổn định.

Trên cơ sở phân tích đánh giá, đề tài lựa chọn giải pháp điều khiển ổn định và áp dụng thử nghiệm giải pháp trên cho hai khu vực của bờ Trụ Nam mỏ Đèo Nai. Qua theo dõi cho thấy, giải pháp điều khiển ổn định phù hợp với điều kiện tự nhiên, kỹ thuật của bờ trụ Nam mỏ Đèo Nai.

Đề tài đã được Hội đồng Khoa học Công nghệ Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam nghiệm thu. Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để Công ty Cổ phần than Đèo Nai – Vinacomin xem xét triển khai xử lý bờ trụ Nam nhằm đảm bảo an toàn cho quá trình khai thác xuống sâu./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ: Hội nghị nghiệm thu dự án sản xuất thử nghiệm đầu đo CO, CH4

Ngày 10 tháng 7 năm 2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở: “Dự án sản xuất  thử nghiệm đầu đo CH4 và CO nhằm thay thế thiết bị ngoại nhập”, thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm về công nghệ khai thác và chế biến khoáng sản, thực hiện Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”.

Hội đồng đánh giá, nghiệm thu cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, gồm 7 thành viên, do TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng làm Chủ tịch.

Mục tiêu cơ bản của dự án là hoàn thiện thiết kế quy trình công nghệ và chế tạo đầu đo CH4 và CO tương thích với các hệ thống đo khí tự động của Ba Lan (KSP– 2C,KSP- 1, KSG–10) hiện được sử dụng ở các mỏ than hầm lò ở Quảng Ninh nhằm thay thế sản phẩm nhập ngoại.

Nội dung nghiên cứu dự án bao gồm 1) Tổng quan về tình hình ứng dụng và nhu cầu sử dụng thiết bị quan trắc khí mỏ ở Việt Nam; 2) Nghiên cứu tiêu chuẩn chế tạo, hoàn thiện thiết kế và quy trình công nghệ chế tạo các đầu đo CH4 và CO tương thích với các đầu đo trong hệ thống Ba lan đang sử dụng sử dụng tại các mỏ hầm lò Quảng Ninh; 3) Chế tạo 10 đầu đo CH4, 10 đầu đo CO; kiểm định về các tính năng, độ chính xác, an toàn tia lửa của sản phẩm; 4) Nghiên cứu tiêu chuẩn thử nghiệm các đầu đo CH4, CO hoạt động trong môi trường khí nổ. Ứng dụng thử nghiệm, so sánh kiểm chứng và đánh giá tính năng làm việc của sản phẩm dự án tại một số mỏ than hầm lò.

Kết quả, dự án đã chế tạo thành công 20 sản phẩm đầu đo khí, trong đó 10 đầu đo khí CHvà 10 đầu đo khí CO. Các sản phẩm đầu đo này được thử nghiệm, kiểm định tại phòng thí nghiệm cũng như tại hiện trường, cho thấy các thông số kỹ thuật, tính năng hoạt động hoàn toàn tương thích với hệ thống quan trắc khí của Ba Lan. Cụ thể:

– Đầu đo SC-CH­4 và SC-CO đã được thử nghiệm, kiểm định và được cấp chứng chỉ thiết bị sử dụng trong môi trường mỏ hầm lò có khí, bụi nổ. Thiết bị làm việc ổn định, sai số đạt yêu cầu cho phép, đầu đo SC-CH4: (0-2.5)%CH±0.1%; (2.5-5.0)%CH±0.3%; (5-100)%CH±3%; đầu đo SC-CO: (0-200)ppmCO ±5ppm và (0-1000)ppmCO ±25ppm.

– 10 đầu đo SC-CHvà 10 đầu đo SC-CO thử nghiệm đầu tiên được Công ty than Dương Huy – TKV và Công ty than Hạ Long – TKV đặt hàng sử dụng cho hệ thống quan trắc khí KSP-2C. Qua hơn 1 năm sử dụng đã khẳng định thiết bị hoạt động ổn định tương thích với hệ thống tủ trạm KSP-2C.

Từ kết quả của Dự án, đến nay Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã sản xuất hơn 100 sản phẩm đầu đo CHvà CO phục vụ mở rộng, bổ sung và thay thế cho các hệ thống cảnh báo khí mỏ tại các đơn vị: Công ty than Vàng Danh, Công ty than Hồng Thái, Công ty than 45….

Hội đồng KHCN cấp cơ sở đánh giá, dự án đã hoàn thành về khối lượng công việc, các sản phẩm của dự án có chất lượng tốt, thay thế được hàng nhập khẩu. Đồng thời, các thành viên tham dự đã có nhiều ý kiến đóng góp trong việc hoàn thiện Báo cáo tổng kết để nghiệm thu cấp Bộ Công Thương./.

Hoàn thành sửa chữa, hoàn thiện hệ thống điều khiển tời trục JK2.5/20A, Công ty than Thống Nhất – TKV

Trong các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh, trục tải là một loại hình vận tải phổ biến để vận chuyển người, vật tư thiết bị qua giếng nghiêng, lò thượng … Chỉ tính các hệ thống tời công suất lớn, trong Tập đoàn TKV đã có 18 hệ thống, lắp đặt ở 9 mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh, trong đó có 16 hệ thống nhập khẩu trọn bộ từ Trung Quốc.

Trục tải người, vật liệu là một trong những thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn. Để đảm bảo an toàn trong quản lý và vận hành tời chở người và các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, Tập đoàn TKV đã ra chỉ thị số: 165/CT-VINACOMIN, ngày 05/12/2013 V/v: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định quản lý sử dụng, vận hành hệ thống vận tải người, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn tại các đơn vị trong Vinacomin”. Trong đó, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin được giao nhiệm vụ tổ chức kiểm toán hệ thống phần liên động điều khiển, bảo vệ điều khiển trung tâm, hệ thống biến tần và hệ thống cảm biến phanh của các hệ thống trục tải ở các đơn vị trong TKV.

Qua khảo sát thực tế, các hệ thống trục tải do Trung Quốc chế tạo còn một số hạn chế, đó là:

– Hệ thống tời sử dụng bộ điều khiển PLC + màn hình cảm ứng, các giao diện vận hành, tài liệu hướng dẫn sử dụng, quy trình vận hành … bằng tiếng Trung Quốc, chưa được biên dịch hoặc biên dịch chưa đồng bộ và chưa chính xác, do đó gây khó khăn trong vận hành, sử dụng hệ thống.

– Hệ thống điều khiển tời mới chỉ tự động khống chế đoạn đầu và đoạn cuối của trục tải, đoạn giữa phụ thuộc vào người điều khiển. Tuy nhiên, với điều kiện cụ thể của mỗi trục tải thì biểu đồ tốc độ ở nhiều đoạn hành trình cũng khác nhau và thấp hơn tốc độ theo quy định, vì vậy để đảm bảo an toàn thì hệ thống điều khiển cần phải khống chế tự động được tốc độ theo điều kiện cụ thể của từng trục tải, hạn chế lỗi quá tốc độ do phụ thuộc hoàn toàn vào người vận hành.

– Các phần mềm điều khiển chưa có khả năng ghi lưu dữ liệu theo thời gian thực như: tốc độ trục tải, tốc độ động cơ, trạng thái phanh, dừng khẩn cấp, tín hiệu điều khiển, hành trình toa xe chở người.

– Chương trình điều khiển trong bộ PLC của hệ thống không được bàn giao lại, đây là phần chương trình xử lý các liên động bảo vệ quan trọng như quá tốc độ, khống chế hành trình theo biểu đồ trục tải và các sự cố khác có vai trò rất quan trọng và là trung tâm điều khiển của tời. Do đó khi cần hiệu chỉnh, thay thế thiết bị hoặc điều chỉnh bổ sung hệ thống sẽ phụ thuộc vào nhà cung cấp nước ngoài.

Vừa qua, Công ty than Thống Nhất – TKV đã phối hợp với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin cải tiến hệ thống điều khiển tời trục JK2.5/20A, mức +25/-140.

Kết quả thực hiện:

1) Việt hóa giao diện phần mềm và bổ sung tính năng: Thay thế các trang giao diện vận hành hệ thống tời từ tiếng Trung Sang tiếng Việt.

Dưới đây là một số hình ảnh giao diện hệ thống điều khiển tời trục trước và sau khi sửa chữa, hoàn thiện

2) Điều chỉnh phần mềm điều khiển: Phần mềm điều khiển được điều chỉnh lại để đáp ứng điều kiện vận hành thực tế của trục tải. Xây dựng và tối ưu hóa biểu đồ tốc độ nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn theo quy định  đồng thời đảm bảo thời gian vận hành trong một chu trình  nâng hạ là nhỏ nhất góp phần nâng cao năng lực vận tải của hệ thống tời trục.

3) Bổ sung thiết bị ghi lưu dữ liệu: Các dữ liệu vận hành được truy xuất và ghi lưu theo các tín hiệu cảnh báo theo thời gian thực, bao gồm: hỏng thiết bị đo sâu; hỏng  nguồn cấp phanh, biến tần báo lỗi; quá áp lực dầu phanh; lỗi điều khiển tốc độ biến tần, có PLC dự phòng; tời xuống quá giới hạn hành trình; quá dòng điện động cơ tời; tời tự trượt; hỏng encoder PLC chính, có PLC dự phòng; tời chạy ngược pha (lên, xuống ngược chiều), có PLC dự phòng; quá tốc độ, có PLC dự phòng; lỗi truyền thông giữa 2 PLC; tời lên quá giới hạn hành trình; tời chạy quá giới hạn 0 mét hoặc 850 mét, cả PLC dự phòng; chân đạp dừng khẩn cấp tại bàn tác động, có PLC dự phòng; Chạy quá tốc độ 2m/s, ở 5 mét đầu hoặc 5 mét cuối, có PLC dự phòng; giảm tốc quá nhanh, có PLC dự phòng; quá tốc độ, có PLC dự phòng; hỏng phanh; hỏng chỉ thị báo lên, xuống; dầu phanh quá nhiệt độ; áp lực dầu bôi trơn thấp.

4) Bổ xung, biên tập và hiệu chuẩn lại các tài liệu, bản vẽ đấu nối các tín hiệu điều khiển và đo lường hỗ trợ cho việc bảo trì và sửa chữa khi hệ thống gặp sự cố.

Công trình sửa chữa phần mềm, hoàn thiện hệ thống điều khiển tời trục JK2.5/20A – Công ty than Thống Nhất – TKV đã hoàn thành và đưa vào sử dụng từ tháng 6/2015. Việc thực hiện thành công Việt hóa giao diện, bổ sung tính năng và hoàn thiện phần mềm điều khiển hệ thống tời trục JK2.5/20A đã khẳng định các cán bộ kỹ thuật Viện Khoa học Công nghệ Mỏ có thể làm chủ kỹ thuật và phần mềm điều khiển, giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài.

Kết quả đạt được là cơ sở cho các đơn vị thuộc Tập đoàn TKV đang sử dụng các hệ thống tời trục do Trung Quốc sản xuất phối hợp với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ thực hiện sửa chữa, hoàn thiện hệ thống điều khiển, khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao tính năng vận hành, bảo đảm an toàn và hiệu quả cho hệ thống tời trục, góp phần ổn định sản xuất và giảm thiểu tai nạn đáng tiếc xảy ra./.