Ngày 8/12/2012, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu đề tài "Nghiên cứu phòng chống nước cho mỏ than hầm lò khai thác dưới bãi thải trong"
Ngày 8/12/2012, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu phòng chống nước cho mỏ than hầm lò khai thác dưới bãi thải trong”
Cơ quan quản lý: Bộ Công Thương
Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin;
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Hữu Huấn
Hội đồng KHCN cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 422/ QĐ-QLKH, ngày 30 tháng 11 năm 2012, gồm 7 thành viên.
TS. Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Chủ tịch
TS. Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng – Phó chủ tịch
TS. Nguyễn Văn Chi, Hội KHCN Mỏ – Phản biện 1
TS. Đào Hồng Quảng, Trưởng phòng – Phản biện 2.
TS. Trần Tú Ba, Phó Viện trưởng – Ủy viên.
TS. Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng – Ủy viên.
TS. Phan Xuân Bình, Trưởng phòng – Ủy viên thư ký.
Hiện nay, tổng trữ lượng than có thể khai thác hầm lò nằm trong vùng ảnh hưởng của khai thác than lộ thiên khoảng 293.539,7 ngàn tấn, trong đó trữ lượng các khu vực nằm tại bờ moong (rìa moong) chiếm khoảng 94.767,7 ngàn tấn và dưới đáy moong khoảng 198.772 ngàn tấn. Để huy động vào khai thác trữ lượng than này, nhóm thực hiện đề tài đã tập trung nghiên cứu tổng quan giải pháp phòng chống nước cho mỏ than hầm lò khai thác dưới bãi thải trong; các nguồn nước chảy vào bãi thải trong các mỏ than khai thác đồng thời lộ thiên – hầm lò tại khu vực Hòn Gai, Uông Bí, Cẩm Phả, Nội Địa; nghiên cứu, đánh giá sự thay đổi tính thấm lớp đất đá ngăn cách giữa bãi thải trong với lò chợ khấu than phá hỏa toàn phần bên dưới. Qua đó đề xuất các giải pháp phòng chống nước cho hầm lò khai thác dưới bãi thải trong như chống thấm nước đáy bãi thải trong; ngăn chặn nước mưa ngấm chảy trực tiếp từ bề mặt moong bãi thải trong; tháo khô mỏ; khai thác an toàn phòng chống bục nước từ moong bãi thải trong; sử dụng vật liệu phụt ép bịt nước, gia cường đất đá. Quá trình tính toán dự kiến áp dụng cho mỏ than hầm lò Núi Béo cho thấy, để ngăn nước tàng trữ trong moong bãi thải trong vỉa 14,11, nhóm thực hiện đề tài đề xuất sử dụng tổ hợp các giải pháp: chống thấm nước bề mặt bãi thải trong, thoát nước cưỡng bức trên bề mặt, thoát nước cưỡng bức từ trong lò, quan trắc nước tầng trữ trong bãi thải trong. Đối với khu vực vỉa 10,11 bị ảnh hưởng bởi nước tàng trữ trong moong bãi thải trong sẽ huy động khai thác vào cuối đời mỏ, bằng công nghệ chèn lò toàn phần.
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được các thành viên của Hội đồng thông qua cấp cơ sở và đóng góp ý kiến để chỉnh sửa hoàn chỉnh đưa báo cáo tại Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ Công Thương.