Ngày 4.9.2018, Hội đồng Khoa học Công nghệ cấp Bộ Công thương đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu đề tài: “Nghiên cứu công nghệ vét bùn hợp lý cho các mỏ than lộ thiên vùng Quảng Ninh” và đề tài “Nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện 1 số nội dung trong quy chuẩn kỹ thuật Quốc Gia về an toàn trong khai thác mỏ Lộ Thiên QCVN 04: 2009/BCT”.
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, hàng năm tại các đáy các mỏ lộ thiên vùng Quảng Ninh từ 55 ÷ 400 ngàn m3, thành phần cờ hạt và tính chất cơ lý của bùn hoa và bùn hạt lớn từ 0 ÷ 2,0 mm chiếm từ 97,55 ÷ 99,73%. Trong đó các yếu tố thời tiết, khí hậu, địa chất công trình thủy văn, công nghệ đào sâu đáy mỏ,….đã làm ảnh hưởng tới công tác nạo vét bùn tại đáy moong, để hạn chế bùn chảy xuống đáy moong đề tài đưa ra các giải pháp như tạo mặt tầng nghiêng vào phía sườn, tạo rãnh thoát nước và hố tiêu năng dọc chân tầng khai thác, bờ chắn mép ngoài tầng khai thác. Đối với các mỏ: Cao Sơn, Đèo Nai, Tây Nam Đá Mài, Núi Béo áp dụng công nghệ vét bùn bằng MXTLGN trong những năm tới (giai đoạn I), áp dụng công nghệ vét bùn bằng máy bơm bùn đặc khi khai trường được mở rộng, khối lượng bùn chảy vào đáy mỏ lớn (giai đoạn II). Với công nghệ này phần bùn hoa (bùn loãng) phí trên, được bơm lên hố chứa bùn cải tạo từ bãi mìn, phần đất đá lẫ bùn phía dưới xúc trực tiếp bằng MXTLGN. Đối với các mỏ Hà Tu, Cọc Sáu áp dụng công nghệ vét bùn bằng máy bơm bùn đặc đối với phần bùn hoa phía trên, phần đất đá lẫn bùn phía dưới xúc trực tiếp bang MXTLGN.
2) Đối với đề tài: “Nghiên cứu công nghệ vét bùn hợp lý cho các mỏ than lộ thiên vùng Quảng Ninh” và đề tài “Nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện 1 số nội dung trong quy chuẩn kỹ thuật Quốc Gia về an toàn trong khai thác mỏ Lộ Thiên QCVN 04: 2009/BCT”.
Trên cơ sở QCVN 04:2009/BCT đang áp dụng vào thực tế sản xuất và quy định về an toàn của các nước trên thế giới, đề tài đề xuất hoàn thiện một số nội dung bao gồm: an toàn trong công tác khoan nổ mìn; an toàn trong công tác đổ thải tại các bãi thải trong moong lộ thiên khi có khai thác hầm lò phía dưới; an toàn về thông số và kỹ thuật an toàn bãi thải; thoát nước thải trong điều kiện biến đổi khí hậu đang diễn ra hiện nay; an toàn trong công tác thoát nước mỏ; các công trình thoát nước và tháo khô; an toàn trong công tác vận tải phối hợp,…
Sau khi nghe nhóm thực hiện đề tài trình bày báo cáo tổng kết, các thành viên trong Hội đồng đã đóng góp nhiều ý kiến, trong đó, về cơ bản đánh giá cao kết quả thực hiện của đề tài cũng như khả năng áp dụng vào thực tiễn sản xuất, đề tài đã hoàn thành đầy đủ các nội dung nghiên cứu theo đề cương đã đăng ký, Hội đồng đã thống nhất nghiệm thu đề tài./.