Họp thẩm định đánh giá kỹ thuật an toàn thiết kế chế tạo giàn chống mềm

Ngày 09/9/2016, Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường – Bộ Công Thương, đã tổ chức cuộc họp thẩm định đánh giá kỹ thuật an toàn thiết kế chế tạo giàn chống mềm cơ cấu thủy lực thuộc đề tài “Nghiên cứu thiết chế tạo giàn mềm có cơ cấu thủy lực trong điều kiện khai thác các vỉa than mỏng đến chiều dày trung bình, góc dốc trên 450”.

Cơ quan quản lý đề tài: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Đoàn Ngọc Cảnh

Hội đồng thẩm định được thành lập theo Quyết định số 161/QĐ- ATMT, ngày 06/10/2014, của Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường – Bộ Công Thương, gồm 9 thành viên, Ông Cao Anh Dũng, Phó Cục trưởng Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường – Bộ Công Thương làm chủ tịch.

Đề tài được Viện Khoa học Công Nghệ Mỏ – Vinacomin thực hiện theo chỉ đạo của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tại Hợp đồng số 148/HĐ/KHCN- KC.01.DD-16/16-20 ngày 22 tháng 7 năm 2016.

Theo đó, đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở giàn chống mẫu, mã hiệu ZRY 20/30L của Trung Quốc, áp dụng tại lò chợ mức +30/+95 vỉa 9B khu Tràng Khê II, Công ty than Hồng Thái. Nhóm thực hiện đã tính toán xác định tải trọng tác động lên giàn chống trong quá trình làm việc; lựa chọn vật liệu chế tạo sản phẩm, trên cơ sở phân tích vật liệu của giàn chống mẫu; Tính toán kiểm tra bền các cụm chi tiết chính của giàn chống trên cơ sở kích thước mẫu, … Sản phẩm của đề tài là 06 bộ giàn chống mềm, mã hiệu GM 20/30, được chế tạo trong nước và đưa vào áp dụng thử nghiệm tại một mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh.

Tại buổi làm việc, sau khi nghe nhóm thực hiện trình bày thiết kế, các nhận xét phản biện cũng như các thành viên trong Hội đồng thẩm định đã thống nhất nghiệm thu với đánh giá, về cơ bản, thiết kế đã đáp ứng được các yêu cầu về an toàn, kỹ thuật. Tuy nhiên, nhóm thực hiện đề tài cần điều chỉnh một số chi tiết nhằm hoàn thiện hơn./.

Công ty Carboatomatyka của Ba Lan làm việc với Viện khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Ngày 5/9/2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty Carboatomatyka (Ba Lan).

Tham dự buổi làm việc, về phía Công ty Carboatomatyka (Ba Lan) có ông Henryk Stabla, Chủ tịch HĐQT, ông Krzysztof Ciucias, ông Maciej Dziergas cùng một số chuyên gia. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng, TS. Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng, TS. Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng, cùng các cán bộ liên quan.

Là một đối tác chiến lược của Viện, tại buổi làm việc, hai bên đã cùng điểm lại những công trình, dự án đã hợp tác trong thời gian gần 20 năm qua, trong việc thiết kế, cung cấp thiết bị lắp đặt các hệ thống cảnh báo khí mỏ tự động, kiểm soát, định vị nhân sự trong lò cho các mỏ than hầm lò trong tập đoàn; nghiên cứu chống cháy mỏ; tư vấn xây dựng phòng thí nghiệm xác định tính tự cháy của than,…đặc biệt là trong lĩnh vực an toàn mỏ, mới đây, Công ty Carboatomatyka đã cung cấp duy trì, bổ sung đầu đo cho 25 hệ thống quan trắc khí mỏ tại các mỏ hầm lò, hợp tác chế tạo, nội địa hoá tủ điều khiển KSP-2C, đầu đo CH4 và CO,… thiết kế, lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống tháo khí tại Công ty than Quang Hanh,…

Trong chuyến công tác này, ngày 3.9 vừa qua, đoàn đã có buổi làm việc tại Trung tâm An toàn mỏ và tại buổi làm việc hôm nay, hai bên đã thảo luận, thống nhất Chương trình hợp tác trong thời gian tới, bao gồm: 1) Hợp tác xây dựng Hệ thống điều độ tạp trung trong các mỏ hầm lò; 2) Nghiên cứu xử lý muối trong nước thải mỏ hầm lò; 3) Tiếp tục dự án nghiên cứu xử lý bùn trong các hầm bơm của mỏ hầm lò Quang Hanh; 4) Nghiên cứu áp dụng giải pháp nâng cao hiệu quả đốt lò hơi của các nhà máy nhiệt điện đốt than, giảm tiêu hao than đốt lò hơi, đồng thời nghiên cứu điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống điều khiển tự động hóa của các nhà máy này.

Kết quả buổi làm việc là cơ sở để hai bên hợp tác trong thời gian tới./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin: Hội nghị nghiệm thu đề tài cấp cơ sở

Ngày 31.8.2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở, đề tài: “Phát triển áp dụng cơ giới hoá đào lò và khai thác tại các mỏ hầm lò vùng than Quảng Ninh giai đoạn 2013-2015, lộ trình đến năm 2020”.

Cơ quan quản lý đề tài: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Đặng Thanh Hải

Hội đồng khoa học công nghệ cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 417/QĐ-VKHCNM, ngày 31/5/2016, gồm 9 thành viên, TS. Trần Tú Ba, làm Chủ tịch, TS. Trương Đức Dư, Phó Chủ tịch, PGS. TS. Phùng Mạnh Đắc, Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam, Phản biện 1, PGS. TS. Nguyễn Xuân Mãn, Đại học Mỏ – Địa chất Hà Nội, Phản biện 2.

Theo Báo cáo tổng kết trình bày tại Hội nghị, đề tài đã hoàn thành những nội dung nghiên cứu: 1) Tổng hợp trữ lượng, điều kiện địa chất – kỹ thuật mỏ các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh; 2) Đánh giá kết quả triển khai áp dụng cơ giới hoá đào lò và khai thác theo các dự án đầu tư xây dựng mỏ hầm lò; 3) Đánh giá đặc điểm điều kiện địa chất – kỹ thuật mỏ các khu vực có khả năng áp dụng cơ giới hoá đào chống lò đá, đào chống lò than và khai thác; 4) Nghiên cứu hoàn thiện các mô hình áp dụng thử nghiệm cơ giới hoá khai thác tại các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh; 5) Nghiên cứu đề xuất sơ đồ công nghệ và đồng bộ thiết bị cơ giới hoá đào lò và khai thác cho điều kiện các khoáng sang than hầm lò vùng Quảng Ninh.

Với các nội dung nghiên cứu như trên, đề tài đã đạt được kết quả bao gồm: 1) Tổng hợp được toàn bộ sản lượng than đã được khai thác bằng công nghệ cơ giới hoá ở các mỏ giai đoạn 2002- 2015; 2) Phân tích chi tiết kết quả áp dụng cơ giới hoá khai thác theo phạm vi sản trạng các vỉa than (dày trung bình, thoải đến nghiêng, vỉa dày, dốc nghiêng đến dốc đứng); 3) Đánh giá toàn diện các nguyên nhân ảnh hưởng đến sản lượng lò chợ; 4) Đánh giá được các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật chính của công nghệ, đặc biệt là công suất lò chợ, năng suất lao động, giá thành và cơ cấu giá thành khai thác và đưa ra so sánh các chỉ tiêu của các loại hình công nghệ, qua đó, thấy rõ tiềm năng tăng sản lượng và giảm số lượng công nhân làm việc trong lò chợ áp dụng công nghệ cơ giới hoá; 5) Tổng hợp đầy đủ khối lượng mét lò đào bằng máy giai đoạn 2003 – 2015 ở các mỏ hầm lò; 6) Tổng hợp được các sơ đồ công nghệ đào lò đá và dây chuyền thiết bị; 7) Phân tích được một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng cơ giới hoá đào lò; 8) Đề xuất được 4 sơ đồ công nghệ cơ giới hoá áp dụng cho các vỉa than mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh (Khấu hết đồng thời toàn bộ chiều dày vỉa; Lò chợ hạ trần thu hồi than; Chia cột theo hướng dốc; Cơ giới hoá gương lò ngắn); 8) Đề xuất được các thiết bị chính trong dây chuyền cơ giới hoá (giàn chống, máng cào và quy mô công suất ứng với từng loại hình công nghệ); 9) Đề xuất các sơ đồ công nghệ và đồng bộ thiết bị cơ giới hoá đào lò than và lò đá; 10) Đề tài đã xây dựng được kế hoạch phát triển sản lượng khai thác bằng công nghệ cơ giới hoá ở các mỏ hầm lò đến năm 2025 và mức giảm số lượng lò chợ thủ công và số lượng công nhân sản xuất trực tiếp trong lò chợ theo từng năm.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin: Hội nghị nghiệm thu đề tài cấp cơ sở

Ngày 20.8.2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở, đề tài “Nghiên cứu đề xuất giải pháp tích hợp các hệ thống giám sát – điều độ tập trung tại Công ty Cổ phần than Hà Lầm – Vinacomin”.

Hội đồng khoa học công nghệ cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 504/QĐ-VKHCNM, ngày 30/6/2016, gồm 7 thành viên, TS. Trần Tú Ba, làm Chủ tịch, TS. Đào Đắc Tạo, Phó Chủ tịch, TS. Nguyễn Chí Tình, Đại học Mỏ – Địa chất, Phản biện 1, TS. Khổng Cao Phong, Đại học Mỏ – Địa chất, Phản biện 2.

Cơ quan quản lý đề tài: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Vũ Tuấn Anh

Theo Báo cáo tổng kết được trình bày tại Hội nghị, xuất phát từ nhu cầu thực tế của Công ty than Hà Lầm – Vinacomin, hiện tại, đang vận hành một số hệ thống giám sát, thông tin tự động, bao gồm: hệ thống kiểm soát năng lượng, hệ thống camera giám sát trong hầm lò, hệ thống kiểm soát người ra, vào lò và trong hầm lò, hệ thống liên lạc điện thoại điều độ sản xuất và hệ thống cảnh báo khí mỏ tự động. Các hệ thống trên hoạt động độc lập, mỗi hệ thống sử dụng một đường truyền, cả bằng cáp quang và cáp đồng. Do đó, không những phức tạp trong vận hành, mà còn lãng phí vật tư, cụ thể, mỗi đường truyền của từng hệ thống, dung lượng đường truyền đều dư thừa, các đường cáp chồng chéo trong hầm lò… Thêm nữa, mỏ Hà Lầm lại đang thực hiện chuyển vị trí nhà điều hành trung tâm, từ mặt bằng +30, lên mặt bằng +75, với những đường truyền sử dụng caps đồng, như hệ thống điện thoại điều độ sản xuất, chất lượng tín hiệu bị giảm sút, dẽ bị giông sét… Việc triển khai thực hiện đề tài nhằm nâng cao hiệu quả vận hành các hệ thống nói trên, đảm bảo an toàn. Trong đó, ngoại trừ hệ thống cảnh báo khí mỏ tự động, dự kiến sẽ được tích hợp ở giai đoạn sau, các hệ thống còn lại sẽ được nghiên cứu, tích hợp trong phạm vi đề tài này. Thực tế, đề tài đã tiến hành nghiên cứu những nội dung: 1) Khảo sát hiện trạng các hệ thống giám sát ra vào lò, thông tin liên lạc, hệ thống giám sát bằng camera cũng như kiểm soát điện năng tại Công ty Cổ phần than Hà Lầm; 2) Nghiên cứu một số phương thức truyền tín hiệu cho các hệ thống giám sát điều độ tập trung; 3) Nghiên cứu khả năng thực hiện tích hợp các đường truyền tín hiệu của các hệ thống giám sát người ra vào lò, thông tin liên lạc, hệ thống giám sát bằng camera về chung một đường truyền tín hiệu, đảm bảo chất lượng đường truyền và tiết kiệm chi phí; 4) Nghiên cứu thực hiện thiết kế tích hợp các hệ thống tại Công ty Cổ phần than Hà Lầm – Vinacomin và đánh giá hiệu quả của hệ thống sau khi tích hợp.

Bộ Công Thương nghiệm thu đề tài Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin thực hiện

Ngày 18.8.2016, Bộ Công Thương đã tổ chức nghiệm thu đề tài do Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin thực hiện: “Nghiên cứu phương pháp quan trắc biến dạng sâu nhằm ngăn ngừa ảnh hưởng cửa trượt bờ mỏ lộ thiên đến các công trình công nghiệp và dân dụng lân cận”.

Hội đồng khoa học công nghệ được thành lập theo Quyết định số 14497/QĐ-BCT, ngày 29/12/2015, của Bộ trưởng Bộ Công Thương, gồm 9 thành viên, GS.TS. Võ Chí Mỹ, làm Chủ tịch, ông Nguyễn Văn Long, Phó Vụ trưởng Vụ KHCN và Tiết kiệm năng lượng, Phó Chủ tịch, PGS. TS. Kiều Kim Trúc, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Phản biện 1 và TS. Trần Trọng Kiên, Hội Khoa học và công nghệ Mỏ, Phản biện 2.

Cơ quan quản lý đề tài: Bộ Công Thương

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: KS. Nguyễn Duy Long

Với mục tiêu là nghiên cứu phân tích kết quả quan trắc đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo ổn định cho bờ mỏ và an toàn cho các công trình xây dựng  dân dụng và công nghiệp lân cận, đề tài đã hoàn thành những nội dung nghiên cứu: 1) Nghiên cứu tổng quan về các phương pháp quan trắc dịch động sâu dự báo biến dạng bờ mỏ lộ thiên.2) Nghiên cứu lựa chọn giải pháp và thiết bị quan trắc dịch động sâu trên bờ mỏ lộ thiên.3) Xây dựng quy trình quan trắc và dữ liệu quan trắc biến dạng sâu trên bờ mỏ lộ thiên.4) Nghiên cứu áp dụng tính toán cho một mỏ.

Sau khi nghe nhóm thực hiện trình bày báo cáo tổng kết đề tài, các nhận xét phản biện cũng như các thành viên trong Hội đồng nghiệm thu đã đóng góp nhiều ý kiến, trong đó, đánh giá, nhóm thực hiện đã hoàn thành đề tài với khối lượng công việc lớn. Đề tài có tính mới, sáng tạo trong việc nghiên cứu  xác định vị trí mặt trượt sâu xảy ra trong địa tầng bờ mỏ lộ thiên.

Kết quả, Hội đồng khoa học công nghệ đánh giá đề tài đạt loại xuất sắc và thống nhất nghiệm thu đề tài./.

Khai giảng khóa đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật công nghệ khai thác – an toàn mỏ hầm lò

Thực hiện nghị quyết số 1245/QĐ-TKV ngày 8/6/2016 của Hội đồng thành viên Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam,  Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã phối hợp với Trường Cao đẳng nghề Than – Khoáng sản Việt Nam tổ chức chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật công nghệ khai thác – an toàn mỏ, cho các học sinh đang theo học nghề xây dựng mỏ, khai thác hầm lò và cơ điện mỏ hầm lò của Trường Cao đẳng nghề Than – Khoáng sản Việt Nam.

Ngày 13/8/2016, tại Trung tâm An toàn mỏ, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã diễn ra Lễ khai giảng khóa đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật công nghệ khai thác – an toàn mỏ hầm lò. Đây là lớp đầu tiên trong chương trình phối hợp đào tạo giữa hai bên.

Tới dự Lễ khai giảng khóa học, về phía Trường Cao đẳng nghề Than – Khoáng sản Việt Nam, có giảng viên Nguyễn Văn Mạnh, thay mặt lãnh đạo nhà trường, cùng các cán bộ, giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy trong khóa học. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, có TS. Nguyễn Văn Hậu, Trưởng phòng Phát triển các dự án thực nghiệm, TS. Phùng Quốc Huy, Phó Giám đốc Trung tâm An toàn mỏ, các cán bộ tham gia giảng dạy trong khóa học, cùng lãnh đạo các đơn vị, phòng ban chuyên môn liên quan của Viện và 45 học viên lớp TC9-K39 của Trường Cao đẳng nghề Than – Khoáng sản Việt Nam.

Khóa học kéo dài trong thời gian 4 ngày, trong thời gian đó, các học viên sẽ được truyền đạt 2 phần chính, về lý thuyết và thực hành. Trong phần lý thuyết các học viên sẽ được trang bị một số nội dung cơ bản về loại hình công nghệ khai thác mỏ hầm lò và công tác an toàn mỏ hầm lò. Về công nghệ khai thác, bao gồm: Công nghệ khai thác lò chợ chống giữ bằng giàn chống siêu nhẹ; Công nghệ khai thác lò chợ trụ hạ trần thu hồi than nóc và lò chợ khấu toàn bộ chiều dày vỉa, chống giữ bằng giàn chống có kết cấu 1 máng cào và 2 máng cào; Công nghệ khai thác lò chợ chống giữ bằng giàn chống 2ANSH; Công nghệ khai thác lò chợ bán xiên, chống giữ bằng giàn chống loại ZRY; Công nghệ khai thác lò dọc vỉa phân tầng, sử dụng lỗ khoan đường kính lớn. Về lĩnh vực an toàn mỏ, bao gồm: Những vấn đề cơ bản về hiểm họa cháy nổ khí mêtan; Những vấn đề cơ bản về cháy nổ bụi than và cách phòng chống; Hướng dẫn sử dụng và kiểm tra các thiết bị cấp cứu mỏ trong hầm lò; Hướng dẫn sử dụng thiết bị phòng nổ sử dụng trong hầm lò.

Nhằm trang bị cho học viên cái nhìn trực quan, sinh động, hiểu biết sâu về từng công nghệ khai thác, an toàn mỏ, sau phần tóm tắt lý thuyết, các học viên sẽ được trực tiếp thao tác thực hành với các mô hình thực tế. Qua đó, giúp học sinh nắm vững được các loại hình công nghệ tiên tiến trong khai thác hầm lò; nắm được kiến thức cơ bản về nguy cơ cháy nổ khí mê tan, bụi than; cách sử dụng các điện phòng nổ trong mỏ hầm lò; cách sử dụng các trang thiết bị an toàn cá nhân, các trang thiết bị cấp cứu trong mỏ hầm lò. Từ đó nâng cao ý thức tự chủ an toàn và kỹ năng phòng chống rủi ro cho mỗi cá nhân người lao động trong quá trình sản xuất./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin: Hội nghị nghiệm thu đề tài cấp cơ sở

Ngày 8.8.2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở,  đề tài: “Nghiên cứu đề xuất dây chuyền công nghệ phù hợp để nâng cao tốc độ đào lò hạ, giếng nghiêng ở các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh”.

Hội đồng khoa học công nghệ cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 504/QĐ-VKHCNM, ngày 21/12/2015, gồm 7 thành viên, TS. Trần Tú Ba, làm Chủ tịch, TS. Trương Đức Dư, Phó Chủ tịch, GS. TS. Nguyễn Quang Phích và TS. Đỗ Ngọc Anh, Trường Đại học Mỏ – Địa chất, là Phản biện 1 và Phản biện 2.

Cơ quan quản lý đề tài: Bộ Công Thương

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: TS. Trịnh Đăng Hưng

Theo Báo cáo tổng kết trình bày tại Hội nghị, đề tài đã hoàn thành những nội dung nghiên cứu: 1) Đánh giá đặc điểm điều kiện địa cơ mỏ khu vực thi công lò hạ, giếng nghiêng vùng Quảng Ninh; 2) Tổng quan về thi công lò hạ, giếng nghiêng trong nước và trên thế giới; 3) Tổng hợp đánh giá hiện trạng kỹ thuật công nghệ thi công lò hạ, giếng nghiêng ở các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh; 4) Phân tích, đánh giá các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới tốc độ thi công lò hạ, giếng nghiêng vùng Quảng Ninh; 5) Đề xuất giải pháp nâng cao tốc độ đào lò hạ, giếng nghiêng, các dây chuyền công nghệ phù hợp với điều kiện mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh

Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài là nhằm hoàn thiện công nghệ thi công nhằm nâng cao tốc độ, năng suất thi công lò hạ, nghiếng nghiêng ở các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh.

Sau khi nghe nhóm thực hiện trình bày báo cáo tổng kết đề tài, các nhận xét phản biện cũng như các thành viên trong Hội đồng nghiệm thu đã đóng góp nhiều ý kiến, trong đó, về cơ bản đánh giá, nhóm thực hiện đã hoàn thành việc thực hiện đề tài với khối lượng công việc lớn và thống nhất nghiệm thu đề tài ở cấp cơ sở.

Bên cạnh đó, các ý kiến của các thành viên Hội đồng KHCN đã có tập trung vào những đóng góp, hoàn thiện Báo cáo tổng kết đề tài. Theo đó, đề tài cần chuẩn lại các dây chuyền công nghệ, đề xuất 4 đến 5 dây chuyền, với hệ thống thiết bị tương ứng, trong những điều kiện áp dụng cụ thể, làm cơ sở định hướng cho các nhà tư vấn, thiết kế khi triển khai dự án đào, chống lò.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin: Hội nghị nghiệm thu đề tài cấp cơ sở

Ngày 5.8.2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở,  đề tài: “Nghiên cứu biên soạn Tiêu chuẩn kỹ thuật thi công và nghiệm thu giếng đứng trong điều kiện các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh”.

Hội đồng khoa học công nghệ cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 459/QĐ-VKHCNM, ngày 15/6/2016, gồm 7 thành viên, TS. Trần Tú Ba, làm Chủ tịch, TS. Đào Hồng Quảng, Phó Chủ tịch, PGS. TS. Nguyễn Xuân Mãn và TS. Đào Viết Đoàn, Trường Đại học Mỏ – Địa chất, là Phản biện 1 và Phản biện 2.

Cơ quan quản lý đề tài: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Văn Công

Theo Báo cáo tổng kết trình bày tại Hội nghị, đề tài đã hoàn thành những nội dung nghiên cứu: 1) Đánh giá hiện trạng công tác thi công giếng đứng tại các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh; 2) Khái quát về các Tiêu chuẩn thi công và nghiệm thu giếng đứng; 3) Xây dựng Tiêu chuẩn thi công và nghiệm thu giếng đứng trong điều kiện các mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh.

Sau khi nghe nhóm thực hiện trình bày báo cáo tổng kết đề tài, các nhận xét phản biện cũng như các thành viên trong Hội đồng nghiệm thu đã đóng góp nhiều ý kiến, trong đó, về cơ bản đánh giá, nhóm thực hiện đã hoàn thành việc thực hiện đề tài với khối lượng công việc rất lớn và thống nhất nghiệm thu đề tài ở cấp cơ sở. Bên cạnh đó, các ý kiến phản biện, đóng góp đã tập trung vào việc điều chỉnh bố cục Báo cáo, nhằm nâng cao tính logic, phản ánh đầy đủ và chính xác kết quả nghiên cứu của đề tài; xác định rõ phạm vi nghiên cứu, cũng như phương pháp nghiên cứu và rà soát về các lỗi ngữ pháp, lỗi chính tả trong Báo cáo, cũng như trong bản Dự thảo Tiêu chuẩn, sản phẩm chính của đề tài.

Trên cơ sở đó, nhóm thực hiện đề tài chỉnh sửa, hoàn thiện Báo cáo tổng kết trước khi trình nghiệm thu ở cấp quản lý đề tài./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin: Hội nghị nghiệm thu đề tài cấp cơ sở

Ngày 30.7.2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở hai đề tài, bao gồm: 1) “Nghiên cứu đánh giá khả năng và hiệu quả khai thác và tuyển quặng titan-zircon khu vực Lương Sơn, tỉnh Bình Thuận” và 2) “Nghiên cứu thiết kế chế tạo hệ thống bảng led điện tử chỉ dẫn và cảnh báo an toàn điều khiển từ xa cho các mỏ khai thác than hầm lò”.

1. Đối với đề tài thứ Nhất, Hội đồng khoa học công nghệ cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 506/QĐ-VKHCNM, ngày 30/6/2016, gồm 7 thành viên, TS. Trần Tú Ba, làm Chủ tịch, PGS. TS. Nguyễn Hoàng Sơn, Trường Đại học Mỏ – Địa chất, Phó Chủ tịch, TS. Chu Công Dần, Hội Khoa học và Công nghệ mỏ Việt Nam, Phản biện 1, ThS. Nguyễn Văn Tráng, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Phản biện 2.

Cơ quan quản lý đề tài: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Văn Minh

Theo Báo cáo tổng kết trình bày tại Hội nghị, đề tài đã hoàn thành những nội dung nghiên cứu: 1) Tổng quan công nghệ khai thác, tuyển quặng titan sa khoáng; 2) Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến công nghệ khai thác và tuyển quặng titan-zircon sa khoáng; 3) Nghiên cứu đề xuất công nghệ khai thác quặng titan-zircon khu vực Lương Sơn I, Bình Thuận; 4) Đề xuất công nghệ tuyển quặng titan-zircon khu vực Lương Sơn I, Bình Thuận; 5) Đề xuát các giải pháp cung cấp điện, nước và xây dựng; 6) Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế.

Sau khi nghe nhóm thực hiện trình bày báo cáo tổng kết đề tài, các nhận xét phản biện cũng như các thành viên trong Hội đồng nghiệm thu đã đóng góp nhiều ý kiến, trong đó, về cơ bản đánh giá, nhóm thực hiện đã hoàn thành việc thực hiện đề tài với khối lượng công việc rất lớn và thống nhất nghiệm thu đề tài ở cấp cơ sở. Bên cạnh đó, các ý kiến phản biện, đóng góp đã tập trung vào việc lựa chọn các phương án công nghệ, thiết bị khai thác, tuyển quặng titan-zircon và thống nhất phương án chọn của đề tài, đó là tổ hợp công nghệ, thiết bị khai thác, với tàu cuốc ở mức +30, khai thác đến mức +50, tầng trên mức +50, sử dụng máy xúc gầu ngoạm, cấp liệu cho tàu cuốc ở mức dưới; quặng sau khai thác từ tàu cuốc được bơm qua đường ống cấp cho tổ hợp thiết bị tuyển ở phía sau, đổ thải trong, sau tổ hơp tuyển. Hệ thống thiết bị này cùng di chuyển theo hướng tiến gương. Đồng thời, các ý kiến đóng góp đề nghị đề tài cần hoàn thiện, theo hướng: i) luận giải rõ hơn về các phương án công nghệ, thiết bị, nhằm khẳng định tính khả thi của phương án chọn; 2) Xác định lại hiệu quả kinh tế, với việc thay đổi công suất của tổ hợp, cập nhật giá bán sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như trên thế giới, xem xét đề xuất phương án chế biến sâu sản phẩm để nâng cao tính khả thi về kinh tế cho phương án. Trên cơ sở đó, nhóm thực hiện đề tài chỉnh sửa, hoàn thiện Báo cáo tổng kết trước khi trình nghiệm thu ở cấp quản lý đề tài.

2. Đối với đề tài thứ Hai, Hội đồng khoa học công nghệ cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 418/QĐ-VKHCNM, ngày 31/5/2016, gồm 7 thành viên, TS. Trần Tú Ba, làm Chủ tịch, TS. Đào Đắc Tạo, Hội Khoa học và Công nghệ mỏ Việt Nam,  Phó Chủ tịch, TS. Nguyễn Đức Khoát, Trường Đại học Mỏ – Địa chất, Phản biện 1, ThS. Đặng Trần Chuyên, Viện Nghiên cứu Điện tử, tin học, tự động hóa, Bộ Công Thương, Phản biện 2.

Cơ quan quản lý đề tài: Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam

Cơ quan chủ trì thực hiện: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Mạnh Cường

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty Cổ phần VIOGEM (Nga)

Ngày 25.7.2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty Cổ phần Viogem (Nga).

Tham dự buổi làm việc, về phía Công ty Cổ phần Viogem có ông Sergey Stepanovich, Tổng Giám đốc, ông Titov VCadimir Ivanovich, Kỹ sư trưởng thực hiện các dự án. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin có ông Lưu Văn Thực, Phó viện trưởng, cùng các cán bộ liên quan của một số phòng chuyên môn.

Hiện nay, một số dự án khai thác than hầm lò nằm dưới khu vực moong lộ thiên đã kết thúc khai thác, có lượng nước mặt tích tụ lớn, gấy ảnh hưởng đến khai thác than hầm lò, tiềm ẩn các nguy cơ bục nước, ngập mỏ. Để có giải pháp phòng ngừa và khắc phục các sự cố nói trên, Tổng Giám đốc Tập đoàn giao cho Viện Khoa học Công nghệ Mỏ  phối hợp với các đơn vị tư vấn trong và ngoài nước “Nghiên cứu các giải pháp xử lý nước đảm bảo an toàn cho quá trình khai thác than hầm lò”. Viogem (Nga) là một trong những đối tác đã hợp tác với Viện trong những năm qua, có nhiều điểm mạnh về lĩnh vực mà Viện đang thực hiện.

Tại buổi làm việc, hai bên đã xem xét chi tiết điều kiện địa chất và những giải pháp tháo nước tổng thể cho các mỏ than khai thác hầm lò các khu vực Mạo Khê, Uông Bí; Hòn Gai; Cẩm Phả thuộc TKV, các dự án khai thác dưới các đối tượng có chứa các điểm tụ thuỷ  như đáy moong lộ thiên, ao, hồ, sông, suối và các giải pháp kỹ thuật tháo khô moong bãi thải trong của mỏ than Núi Béo.

Đối với Công ty than Núi Béo, theo kế hoạch, năm 2018, Moong V14 cánh Đông sẽ kết thúc khai thác lộ thiên ở mức -135. Sau khi kết thúc khai thác, sẽ tiến hành đổ đất đá thải lấp moong đến cốt +41 phía Bắc, giảm dần về phía Nam đến cốt +15. Do đất đá thải có độ rỗng lớn, nên sau khi lấp, moong sẽ trở thành khu vực chứa nước, theo dự tính bãi thải trong moong V14, cánh Đông có khả năng chứa trên 4 triệu m3 nước, tiềm ẩn nguy cơ bục nước, ảnh hưởng đến an toàn khi khai thác hầm lò. Vì vậy, cần thiết phải có biện pháp chủ động tháo nước tích đọng trong moong nhằm đảm bảo an toàn trong quá trình khai thác phần hầm lò phía dưới.

Theo kế hoạch, sau buổi làm việc phía Công ty Cổ phần Viogem và Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin sẽ có chuyến khảo sát thực tế tại Công ty than Núi Béo và các khu vực Mạo Khê, Uông Bí; Hòn Gai; Cẩm Phả, Quảng Ninh, làm cơ sở cho việc hoạch định các giải pháp hợp lý nhằm giải quyết vấn đề này./.

Viện Khoa học Công nghệ mỏ – Vinacomin tiếp và làm việc với Chủ tịch Hãng Becker Warkop (Ba Lan) và đại diện Công ty Âu Việt

Ngày 14 và 15/7/2016, ông Trần Tú Ba, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã tiếp và làm việc với Chủ tịch Hãng Becker Warkop, ông Tomasz Budniok và đại diện Công ty Âu Việt, ông Nguyễn Văn Viễn, Phó Giám đốc. Cùng tiếp và làm việc với đoàn có ông Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng và trưởng, phó một số phòng chuyên môn có liên quan.

Nội dung chính của buổi làm việc, đó là phối hợp triển khai thực hiện các công việc trong tiến trình đưa vào áp dụng cơ giới hóa lò chợ gương ngắn, sử dụng máy combai 1 tang khấu, kích cỡ, công suất nhỏ; hệ thống vận chuyển người và vật tư, thiết bị bằng tời KS, kéo goòng trên ray nền và bằng đoàn goòng, với đầu tàu diêzel LZS-150, vận hành cả trên lò dốc đến 30 độ (đầu tàu 2 trong 1). Những thiết bị này do Hãng Becker Warkop chế tạo và chuyển giao công nghệ.

Tại buổi làm việc, phía Hãng Becker Warkop và Công ty CP Công nghiệp Âu Việt đã giới thiệu về các thiết bị nói trên. Đồng thời các bên cùng thảo luận, trao đổi cụ thể về tính năng kỹ thuật, phạm vi áp dụng, những ưu, nhược điểm…của các thiết bị này và khả năng áp dụng trong thực tế các mỏ hầm lò Việt Nam, mà trước mắt là việc áp dụng tời KS ở mỏ Nam Mẫu, đầu tàu LZS-150, ở mỏ Khe Chàm III.

Kết quả làm việc là cơ sở trong việc hợp tác giữa các bên trong thời gian tới./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty than Kushiro (Nhật Bản)

Ngày 12.7.2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với đoàn chuyên gia Công ty than Kushiro (Nhật Bản) về công tác đào tạo khoan neo và neo cáp. Đây là một trong những nội dung thuộc Dự án “Nâng cao năng lực sản xuất than”, hợp tác giữa Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam với tổ chức Jcoal, Nhật Bản.

Sau một thời gian áp dụng chống lò bằng vì neo, đến nay, các nhà quản lý, kỹ thuật đã hiểu rõ ưu điểm của việc chống lò bằng vì neo, không những nâng cao tốc độ đào lò, nâng cao khả năng cơ giới hóa khâu chống lò, giảm mức độ nặng nhọc cho thợ lò, mà còn giảm đáng kể chi phí đào, chống lò. Tuy nhiên, trong những năm qua, mặc dù TKV đã ban hành áp dụng cơ chế khuyến khích chống lò bằng vì neo,song việc áp dụng trong thực tế vẫn còn hạn chế.

Trong buổi làm việc này, hai bên trao đổi, bàn bạc, thống nhất về nội dung chuẩn bị Hội thảo “Khoan neo và neo cáp” do Tập đoàn Công nghiệp than Khoáng sản Việt Nam phối hợp với Công ty CP than Kushiro (Nhật Bản) tổ chức. Công tác đào tạo khoan neo và neo cáp là một trong những nội dung chính sẽ được thảo luận tại Hội thảo, nhằm mục đích bồi dưỡng, nâng cao kiến thức áp dụng chống lò bằng vì neo cho phía Việt Nam. Dự kiến Hội thảo  được tổ chức vào ngày 14/7/2016./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với chuyên gia Tập đoàn Famur (BaLan)

Ngày 7/7/2016, TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với chuyên gia của Tập đoàn Famur (BaLan).

 Tham dự buổi làm việc, về phía Tập đoàn Famur có ông Jan Pos’wiata, Giám đốc bộ phận hệ thống vận tải đường sắt trong hầm lò, ông Piotr Monsiorski, Phó Giám đốc kinh doanh hệ thống vận tải vật liệu rời và ông Radoslaw Michalak, Kỹ sư trưởng hệ thống vận tải đường sắt trong hầm lò. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, có ông Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng, cùng một số trưởng, phó phòng chuyên môn có liên quan.
Mở đầu, thay mặt Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, TS. Trần Tú Ba đã có lời chào mừng các vị khách quý Hãng Famur đã đến làm việc với Viện. Tiếp đó, TS. Trần Tú Ba đã giới thiệu về Viện, một số công trình tiêu biểu mà Viện là đơn vị nghiên cứu, tư vấn, thiết kế, chuyển giao công nghệ, các đối tác nước ngoài mà Viện đã hợp tác trong những năm qua. Trong đó, có các cơ quan, doanh nghiệp Nhật Bản, với hợp tác chủ yếu về lĩnh vực an toàn mỏ; các doanh nghiệp Trung Quốc, với 2 công trình tiêu biểu, đó là xây dựng Nhà máy tuyển bauxite Tân Rai, Nhân Cơ… Đặc biệt, đối với Viện, các doanh nghiệp của Ba Lan là những đối tác đã có nhiều đóng góp trong sự phát triển của Viện, như Viện GIG, Hãng Carboautomatyka,… với những công trình tháo khí mê tan, thiết lập hệ thống cánh báo khí mỏ tự động, chế tạo linh kiện, thiết bị, phụ tùng thay thế,… Hiện nay, Viện đang hợp tác với GIG trong việc xây dựng phòng thí nghiệm than tự cháy, với Hãng Carboautomatyka chế tạo nội địa hóa các linh kiện, thiết bị của hệ thống cảnh báo khí mỏ tự động…

Về phía mình, thay mặt đoàn, ông Jan Pos’wiata đã giới thiệu về các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của Hãng Famur. Theo giới thiệu, Tập đoàn Famur là doanh nghiệp chế tạo nhiều thiết bị, phục vụ cho nhiều lĩnh vực khác nhau, từ những thiết bị đồng bộ cơ giới hóa khai thác, đào lò, vận tải trong hầm lò; các thiệt bị trên mặt bằng: thiết bị bốc dỡ than ở cảng, kho chứa… thiết bị vận tải trong các nhà máy điện; các thiết bị cho ngành đúc, luyện kim, đến các thiết bị phục vụ công nghiệp khai thác dầu, khí…

Với mục đích hướng tới sự hợp tác giữa hai bên trong thời gian tới, tại buổi làm việc, hai bên đã trao đổi về những vấn đề mà hai bên có thể hợp tác, từ những công trình trong ngắn hạn và cả những vấn đề trung và dài hạn. Theo đó, TS. Trần Tú Ba đề nghị Famur xây dựng danh mục các chủng loại thiết bị của Hãng, có thể áp dụng ở Việt Nam, từ đó, hai bên sẽ cùng xem xét, điều chỉnh các tính năng kỹ thuật cho phù hợp với từng điều kiện cụ thể trong Ngành mỏ Việt Nam…

Kết quả buổi làm việc là cơ sở để hai bên tăng cường hợp tác trong thời gian tới./.

UBND huyện Lộc Bình tổ chức lễ công bố đề án Quy hoạch chi tiết xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Na Dương II, huyện Lộc Bình Tỉnh Lạng Sơn, tỷ lệ 1/500

Ngày 14/6/2016, tại trụ sở UBND thị trấn Na Dương, UBND huyện Lộc Bình đã tổ chức lễ công bố đề án Quy hoạch chi tiết xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Na Dương II, huyện Lộc Bình,Tỉnh Lạng Sơn, tỷ lệ 1/500.

Tham dự lễ công bố có đại diện sở xây dựng tỉnh Lạng Sơn, Lãnh đạo UBND huyện Lộc Bình, đại diện lãnh đạo UBND thị trấn Na Dương, đại diện chủ đầu tư Tổng Công ty Điện lực – TKV, Nhà máy Nhiệt điện Na Dương, đại diện tổ chức tư vấn, Viện Khoa học Công nghệ mỏ – Vinacomin.

Tại buổi lễ, ông Hoàng Văn Vinh Phó Chủ tịch UBND huyện Lộc Bình công bố Quyết định số 695/QĐ-UBND ngày 29/4/2016 của UBND tỉnh Lạng Sơn về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Na Dương II, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, tỷ lệ 1/500. Theo đó, diện tích lập quy hoạch chi tiết Nhà máy là 10,995 ha, với tổng mức đầu tư gần 4200 tỷ. Dự án do Tổng Công ty Điện lực TKV làm chủ đầu tư và Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin là đơn vị tư vấn lập Quy hoạch chi tiết xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Na Dương II.

Tiếp đó, đại diện chủ đầu tư và đơn vị tư vấn đã giải trình các nội dung liên quan đến đồ án Quy hoạch chi tiết xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Na Dương II và bàn giao hồ sơ, tài liệu quy hoạch đã được duyệt cho sở Xây dựng tỉnh Lạng Sơn, UBND huyện Lộc Bình, UBND thị trấn Na Dương.

Dự án Nhà máy Nhiệt điện Na Dương là Nhà máy Nhiệt điện có ý nghĩa chiến lược của tỉnh Lạng Sơn và khu vực miền Bắc với mục tiêu cụ thế hoá chương trình phát triển nguồn điện của Bộ Công thương, Thủ tướng Chính phủ và chủ trương chính sách xã hội của tỉnh Lạng Sơn về quy hoạch phát triển điện năng giai đoạn 2015 – 2025. Quy hoạch xây dựng khu vực nhà máy Nhiệt điện Na Dương II có quy mô đồng bộ về cơ sở hạ tầng, đầy đủ các dịch vụ, khai thác tối đa các điều kiện tự nhiên. Quy hoạch hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đấu nối hợp lý giữa hiện trạng và hệ thống mới. Làm cơ sở cho việc quản lý đầu tư xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Na Dương.

Nội dung chi tiết đồ án quy hoạch được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai liên tục trong 15 ngày tại trụ sở UBND thị trấn Na Dương./.

Tập đoàn TKV: Hội nghị nghiệm thu đề tài do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin chủ trì thực hiện

Ngày 3 tháng 6 năm 2016, thực hiện Quyết định của Tổng Giám đốc Tập đoàn, số 2631/QĐ-TKV, ngày 2/12/2015 và Quyết định số 451/QĐ-TKV, ngày 22/3/2016, Tập đoàn TKV đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu 2 đề tài do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin chủ trì thực hiện, thuộc Chương trình KHCN của Tập đoàn, bao gồm: 1) Nghiên cứu thiết kế, xây dựng hệ thống quan trắc nước mỏ tự động cho các mỏ than hầm lò; 2) Nghiên cứu xây dựng hệ thống giám sát quản lý năng lượng theo tiêu chuẩn ISO ứng dụng trong mỏ hầm lò và lộ thiên.

1. Đề tài: Nghiên cứu thiết kế, xây dựng hệ thống quan trắc nước mỏ tự động cho các mỏ than hầm lò.

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lê văn Hải.

Hội đồng KHCN đánh giá nghiệm thu đề tài bao gồm 7 thành viên, ông Khuất Mạnh Thắng, Phó Tổng Giám đốc TKV là Chủ tịch; ông Kiều Kim Trúc, Phó trưởng Ban KCL là thư ký khoa học; Ủy viên phản biện, PGS.TS. Nguyễn Anh Nghĩa, Trường Đại học Mỏ-Địa chất và ông Phạm Quốc Toản, Phó trưởng Ban KCM.

Theo Báo cáo tổng kết, với mục tiêu của đề tài: Tự động hóa việc kiểm soát nước mỏ, đảm bảo an toàn trong quá trình khai thác than, đề tài đã hoàn thành các nội dung nghiên cứu, bao gồm: 1) Khảo sát và đánh giá thực trạng về việc kiểm soát nước mỏ tại các đơn vị sản xuất khai thác mỏ hầm lò, lộ thiên ở Việt Nam; Sự cần thiết trong việc kiểm soát nước mỏ; 2) Tổng quan một số hệ thống quan trắc nước mỏ trên thế giới; 3) Nghiên cứu và lựa chọn giải pháp thiết kế và tích hợp hệ thống; 4) Thiết kế, xây dựng hệ thống quan trắc nước mỏ tự cho mỏ hầm lò vùng Quảng Ninh.

Sau khi nghe nhóm thực hiện đề tài trình bày Báo cáo tổng kết, các Ủy viên phản biện đã đọc nhận xét, các thành viên tham dự Hội nghị đã đóng góp nhiều ý kiến về kết quả thực hiện đề tài. Các ý kiến phản biện cũng như những đóng góp của các thành viên đều ghi nhận kết quả nghiên cứu của đề tài. Theo đó, đề tài đã hoàn thành về khối lượng công việc, đã thiết kế, xây dựng phần mềm trong việc kiểm soát nước mỏ, từ nguồn nước bổ cập vào lò (nước mưa, nước ngầm), đến việc tự động hóa trong điều khiển vận hành trạm bơm nước của mỏ và hoàn thành thiết kế một hệ thống cụ thể cho khu mỏ Bình Minh, Công ty than Hòn Gai. Bên cạnh đó, các ý kiến của Hội đồng cũng đóng góp cho đề tài một số điểm còn hạn chế, như việc kiểm soát liên động giữa hầm bơm và lò chứa nước trong hầm lò, bổ sung thuyết minh về phần mềm, chuẩn xác lại lưu đồ thuật toán trong xây dựng phần mềm, phân biệt giữa thiết kế công nghệ với thiết kế xây lắp công trình…

Kết quả bỏ phiếu của Hội đồng đã đánh giá Đề tài đạt 77/100 điểm và Hội đồng KHCN đã thống nhất nghiệm thu đề tài, với mức độ hoàn thành đạt loại khá. Hội đồng KHCN đồng thời đề xuất, báo cáo Tổng Giám đốc TKV cho triển khai kết quả nghiên cứu của đề tài vào thực tế, trước mắt sẽ thông qua dự án sản xuất thử nghiệm.

2. Đề tài: Nghiên cứu xây dựng hệ thống giám sát quản lý năng lượng theo tiêu chuẩn ISO ứng dụng trong mỏ hầm lò và lộ thiên.

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Vũ Thế Nam.

Hội đồng KHCN đánh giá nghiệm thu đề tài bao gồm 7 thành viên, ông Khuất Mạnh Thắng, Phó Tổng Giám đốc TKV là Chủ tịch; ông Kiều Kim Trúc, Phó trưởng Ban KCL là thư ký khoa học; Ủy viên phản biện, TS. Nguyễn Chí Tình, Trường Đại học Mỏ-Địa chất và ông Đoàn Việt Tuấn, Phó trưởng Ban CV.

Theo Báo cáo tổng kết, với mục tiêu của đề tài: Xây dựng được mô hình hệ thống quản lý năng lượng theo tiêu chuẩn ISO 50001:2011 cho một mỏ than hầm lò và một mỏ than lộ thiên nhằm quản lý năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, đề tài đã hoàn thành các nội dung nghiên cứu, bao gồm: 1) Khảo sát đánh giá thực trạng quản lý năng lượng trong các đơn vị sản xuất than hầm lò và lộ thiên thuộc Tập đoàn TKV; 2) Nghiên cứu tiêu chuẩn ISO 50001:2011, đánh giá nhu cầu, rào cản và khả năng triển khai Hệ thống quản lý năng lượng trong ngành than; 3) Nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý năng lượng phù hợp cho mỏ than hầm lò theo tiêu chuẩn ISO; 4) Nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý năng lượng phù hợp cho mỏ than lộ thiên theo tiêu chuẩn ISO; 5) Xây dựng hệ thống quản lý điện năng theo tiêu chuẩn ISO cho một đơn vị sản xuất than hầm lò và lộ thiên.

Sau khi nghe nhóm thực hiện đề tài trình bày Báo cáo tổng kết, các Ủy viên phản biện đã đọc nhận xét, các thành viên tham dự Hội nghị đã đóng góp nhiều ý kiến về kết quả thực hiện đề tài. Các ý kiến phản biện cũng như những đóng góp của các thành viên đều đánh giá cao kết quả nghiên cứu của đề tài. Theo đó, đề tài đã hoàn thành về khối lượng công việc, nhất là đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống quản lý năng lượng cho mỏ Hà Lầm và mỏ Cao Sơn và đã được công nhận phù hợp với tiêu chuẩn ISO 50001:2011. Đặc biệt, những ý kiến của lãnh đạo mỏ Hà Lầm, Cao Sơn đã ghi nhận những thành công của đề tài, không những giảm được tiêu hao năng lượng cho các đơn vị áp dụng, mà còn nâng cao nhận thức của cán bộ, công nhân với việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Bên cạnh đó, các ý kiến của Hội đồng cũng đề cập đến các hộ tiêu thụ năng lượng đươc chọn triển khai áp dụng tại mỏ Hà Lầm (điện chiếu sáng mặt bằng sân công nghiệp và xưởng sàng), cũng như tại mỏ Cao Sơn (tuyến băng tải than) chưa thật sự đặc trưng cho các mỏ này về tiêu thụ năng lượng.

Kết quả bỏ phiếu của Hội đồng đã đánh giá Đề tài đạt 82/100 điểm và Hội đồng KHCN đã thống nhất nghiệm thu đề tài, với mức độ hoàn thành đạt loại khá, đồng thời đề nghị cần tiếp tục triển khai nhân rộng kết quả nghiên cứu của đề tài, trước tiên cho mỏ Hà Lầm và Cao Sơn./.

Tập đoàn TKV: Họp chấn chỉnh về công tác đảm bảo an toàn trong sản xuất

Ngày 1 tháng 6 năm 2016, tại Trung tâm điều hành sản xuất tại Quảng Ninh, Tập đoàn TKV, dưới sự chủ trì của ông Ngô Hoàng Ngân, Phó Tổng Giám đốc, Tập đoàn TKV đã tổ chức cuộc họp, v/v Chấn chỉnh sau vụ sự cố cháy khí tại khu Hà Ráng-Công ty than Hạ Long.

Tham dự cuộc họp, có đại diện lãnh đạo các ban của TKV, ông Đinh Hữu Quyết, Trưởng Ban CV, ông Phạm Ngọc Lược, Phó trưởng Ban KCM, ông Nguyễn Kim Cẩn, Phó trưởng Ban AT. Về phía Công ty than Hạ Long-TKV, đơn vị quản lý mỏ Hà Ráng có ông Bùi Đình Thanh, Giám đốc, ông Đỗ Đức Tiệm, Phó Giám đốc, cùng lãnh đạo một số phòng có liên quan. Về phía Trung tâm Cấp cứu mỏ, ông Hoàng Bạch Đằng, Giám đốc, cùng một số cán bộ liên quan.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ tham dự cuộc họp có ông Trần Tú Ba, Viện trưởng, ông Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng, Giám đốc Trung tâm An toàn mỏ, ông Phùng Quốc Huy, Phó Giám đốc Thường trực Trung tâm An toàn mỏ, cùng một số trưởng phòng có liên quan.

Tại buổi làm việc, Phó Tổng Giám đốc TKV, ông Ngô Hoàng Ngân đã điểm lại tình hình mất an toàn lao động trong toàn Tập đoàn từ đầu năm 2016 đến nay, trong đó nổi cộm nhất là vụ cháy khí mêtan tại khu Hà Ráng ngày 03/4/2016, tiếp đó đến vụ nổ bãi mìn tại công trường Công ty than Cao Sơn. Đồng thời nhấn mạnh, nội dung cuộc họp hôm nay nhằm rút kinh nghiệm từ vụ cháy khí mêtan tại khu Hà Ráng ngày 03/4/2016 để kiện toàn, nâng cao hiệu quả công tác quản lý an toàn tại các đơn vị trong TKV nói chung và Công ty than Hạ Long nói riêng.

Theo đó, cuộc họp đã nghe Báo cáo của Công ty than Hạ Long về trường hợp mất an toàn, cháy khí mêtan tại khu Hà Ráng ngày 03/4/2016, Báo cáo của lãnh đạo các ban AT, KCM, CV, phân tích các nguyên nhân của vụ cháy khí mêtan tại khu Hà Ráng. Tiếp đó là các báo cáo của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ và Trung tâm Cấp cứu mỏ, đi sâu phân tích về nguồn xuất khí mêtan, cũng như các nguyên nhân gây cháy khí.

Tổng hợp các ý kiến phát biểu tại cuộc họp, Phó Tổng Giám đốc Ngô Hoàng Ngân đã kết luận:

– Sơ đồ công nghệ đã được thiết kế và sơ đồ Ứng cứu sự cố – Tìm kiếm cứu nạn là hoàn toàn đúng cho khu vực từ mức -60/-30 cánh tây khu V vỉa 14 khu Hà Ráng (nơi đã xảy ra sự cố).

– Nguyên nhân sơ bộ có thể do động cơ máng cào, do biện pháp xử lý cụ thể chưa hợp lý, khi hàm lượng khí tăng cao, như việc vận hành quạt cục bộ tích cực, khiến cho hàm lượng mêtan bị hòa loãng đến giới hạn cháy, nổ…

– Về các giải pháp đảm bảo an toàn, cần bổ sung thêm đầu đo khí ở những đường lò thông gió mức trên; trang bị các máy đo khí cá nhân cho các gương lò; các đơn vị phải kiểm định những thiết bị, vật tư trước khi đưa vào sử dụng trong mỏ hầm lò; Đối với hệ thống giám sát khí mỏ tập trung từ xa đặt tại Trung tâm An toàn mỏ, đề nghị Trung tâm An toàn mỏ lập phương án để các Ban của Tập đoàn TKV và các đơn vị khác hỗ trợ khi xảy ra sự cố.

Đồng thời, Phó Tổng Giám đốc chỉ đạo:

– Các Ban trong TKV: Rà soát lại các quy trình, quy định, hướng dẫn để ban hành mới trước tháng 7 năm 2016 ( báo cáo PTGĐ vào cuối tháng 6 năm 2016).

– Viện Khoa học Công nghệ Mỏ tham gia cùng với Ban AT (chủ trì), Ban KCM, Ban CV rà soát lại toàn bộ các hệ thống quan trắc khí mỏ, yêu cầu kiểm tra từ chi tiết đến tổng thể đối với từng đơn vị (xong trước 15/7/2016); kiểm tra vật liệu nổ.

– Đoàn điều tra tìm nguyên nhân xảy ra sự cố cháy khí tại khu Hà Ráng ngày 03/4/2016: Đến ngày 20/6/2016 phải có kết luận.

– Công ty than Hạ Long, một mặt chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả công tác quản lý an toàn, mặt khác cần cải thiện hơn nữa điều kiện và môi trường làm việc của công nhân.

Từ ngày 23.5.2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin chính thức hoạt động theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008

Theo Quyết định của Trung tâm Chứng nhận phù hợp (QUACERT), Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, số 2912/QĐ-QUACERT, ngày 23/5/2016, về việc cấp Giấy chứng nhận Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008, trong đó, QUACERT đã cấp Giấy chứng nhận Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 cho Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, địa chỉ tại số 3, Phan Đình Giót, Thanh Xuân, Hà Nội, trong lĩnh vực hoạt động: 1) Nghiên cứu và phát triển thực nghiệm khoa học công nghệ; 2) Tư vấn lập dự án đầu tư, thiết kế, khảo sát địa chất, địa hình và quản lý dự án đối với công trình mỏ và công nghiệp; 3) Tư vấn lập báo cáo đánh giá tác động, phương án cải tạo phục hồi môi trường và các dịch vụ quan trắc môi trường. Giấy chứng nhận có hiệu lực kể từ ngày 23.5.2016 đến ngày 14.9.2018. Trong thời gian hiệu lực của Giấy chứng nhận, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin được phép sử dụng Giấy chứng nhận số HT 3662.16.34, Dấu chứng nhận của Trung tâm Chứng nhận phù hợp (QUACERT) và Dấu công nhận của JAS-ANZ làm bằng chứng cho việc thừa nhận quốc tế cho lĩnh vực hoạt động nêu trên.

Như tin đã đưa, nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, tạo sự nhất quán trong công việc, chuẩn hóa các quy trình hoạt động, từ cuối năm 2015, Viện đã xây dựng tài liệu hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2008 và từ ngày 18/1/2016,  Viện đã ban hành và đưa vào áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 ÷ 2008 trong các hoạt động của Viện.

Sau một thời gian áp dụng, qua các đợt đánh giá nội bộ và kiểm tra chéo trong toàn Viện, ngày 19/4/2014, Trung tâm chứng nhận phù hợp (QUACERT) đã tiến hành đánh giá chính thức các hoạt động của Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008. Và từ ngày 23.5.2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin chính thức hoạt động theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008./.

Tập đoàn TKV: Thông qua nội dung công trình Nghiên cứu, đánh giá ổn định các bãi thải mỏ than lộ thiên TKV do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ chủ trì thực hiện

Ngày 27.5.2016, tại Trung tâm điều hành sản xuất tại Quảng Ninh, Tập đoàn TKV đã tổ chức Hội nghị: Báo cáo, thông qua nội dung công trình “Nghiên cứu độ ổn định, lựa chọn thông số, trình tự đổ thải, giải pháp thoát nước và công trình bảo vệ phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu tại các bãi thải mỏ than lộ thiên thuộc TKV”. Công trình do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin chủ trì thực hiện.

 Dưới sự chủ trì của Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Vũ Anh Tuấn, tham dự Hội nghị có ông Nguyễn Văn Sinh, Phó Giám đốc Trung tâm điều hành sản xuất tại Quảng Ninh, đại diện lãnh đạo các Ban của TKV, KCM, TN, KCL, MT, AT, Phó Tổng Giám đốc kỹ thuật Tổng Công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc, Phó giám đốc kỹ thuật, cùng trưởng, phó phòng kỹ thuật và cán bộ liên quan của các mỏ lộ thiên: Cọc Sáu, Cao Sơn, Đèo Nai, Tây Nam Đá Mài, Núi Béo, Hà Tu, Công ty than Hòn Gai, Công ty CP Tư vấn đầu tư mỏ và công nghiệp.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin tham dự và trình bày Báo cáo tại Hội nghị có ông Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng, cùng đại diện lãnh đạo và các cán bộ liên quan của Phòng Nghiên cứu CNKT lộ thiên, Phòng Địa cơ mỏ, Phòng Tư vấn xây dựng và quản lý đầu tư.

Theo Báo cáo, thực tế, các bãi thải mỏ than lộ thiên của TKV, mặc dù đã thực hiện theo đúng thiết kế, đảm bảo ổn định và an toàn, tuy nhiên, tình hình biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, như đợt mưa lũ kéo dài, với vũ lượng lớn vào cuối tháng 7, đầu tháng 8/2015, một số bãi thải đã bị sạt lở nghiêm trọng. Từ đó, Công trình này được triển khai thực hiện, với mục tiêu: Đảm bảo an toàn cho các bãi thải, giảm thiểu ảnh hưởng của bãi thải đến các công trình xung quanh. Bám sát mục tiêu này, Công trình đã hoàn thành các nội dung nghiên cứu, bao gồm: 1) Đánh giá hiện trạng ổn định tại các bãi thải của các mỏ than lộ thiên thuộc TKV; 2) Nghiên cứu ổn định của các bãi thải các mỏ than lộ thiên thuộc TKV trong điều kiện biến đổi khí hậu; 3) Nghiên cứu lựa chọn công nghệ và trình tự đổ thải hợp lý cho các bãi thải của các mỏ than lộ thiên thuộc TKV trong điều kiện tự nhiên và đất đá sũng nước; 4) Lựa chọn các giải pháp thoát nước và các công trình bảo vệ phù hợp đảm bảo độ ổn định tại các bãi thải của các mỏ lộ thiên thuộc TKV trong điều kiện biến đổi khí hậu.

Trong nội dung thứ Nhất, Công trình đã thực hiện đánh giá hiện trạng ổn định, thoát nước và các công trình bảo vệ bãi thải tại các mỏ than lộ thiên thuộc TKV, và  mức độ ổn định các bãi thải theo các thiết kế. Theo đó:

– Công tác thiết kế và thi công các bãi thải của các mỏ than trực thuộc Tập đoàn TKV trong thời gian quan đã tuân thủ các quy định, quy phạm về an toàn của Nhà nước và TKV. Với các thông số bãi thải theo thiết kế đã được phê duyệt, các bãi thải đều đảm bảo ổn định tính đến thời điểm 30/6/2015 (trước khi mưa lũ).

– Sau đợt mưa lũ cuối tháng 7 đầu tháng 8 năm 2015 hiện tượng xói lở, rửa trôi đất đá chỉ xảy ra tại một số bãi thải có dạng “cánh cung lõm” như Đông Cao Sơn, Chính Bắc…. Đối với các bãi thải đã kết thúc đổ thải và tiến hành hoàn thổ như Nam Lộ Phong, Nam Đèo Nai, Mông Giăng…và một số các bãi thải đang đổ thải có dạng “thẳng” và dạng “cánh cung lồi” như: Bàng Nâu, trong moong Lộ Trí, vách Tòong Danh,… đều ổn định, không xảy ra hiện trượng trôi trượt, xói lở tầng thải.

– Nguyên nhân gây ra xói lở bãi thải được xác định là lưu lượng mưa lớn (từ 1.100÷1.600 mm), thời gian mưa kéo dài (từ ngày 26/7/2015 đến ngày 5/8/2015) đã làm cho đất đá bị sũng nước, giảm liên kết, gia tăng tốc độ dòng chảy mặt và chảy ngầm trong bãi thải. Mặt khác, các công trình thoát nước, bảo vệ bãi thải (mương, rãnh, đê, đập chắn đá thải) có kích thước nhỏ, gần chân bãi thải đã không phát huy được hiệu quả bảo vệ và thoát nước bãi thải.

Ở nội dung thứ Hai, từ những phân tích đặc điểm điều kiện tự nhiên, kỹ thuật các bãi thải, bao gồm đặc điểm nền bãi thải, thành phần nguồn gốc của đất đá bãi thải, đặc điểm nước mặt và nước ngầm, Công trình đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến độ ổn định bãi thải, thực hiện thí nghiệm bổ sung xác định tính chất cơ lý đất đá thải, từ đó nghiên cứu đề xuất các thông số bãi thải, đảm bảo ổn định trong điều kiện biến đổi khí hậu. Theo đó:

– Các yếu tố ảnh hưởng đến độ ổn định của bãi thải bao gồm: khối lượng thể tích đất đá, lực dính kết, góc nội ma sát, chiều cao tầng thải, nền tầng thải, điều kiện thủy văn và công nghệ đổ thải.

– Khi đất đá ở trạng thái bão hòa nước, khối lượng thể tích đất đá tăng từ 5÷10 %, lực dính kết và góc ma sát trong giảm trung bình 10 % dẫn đến độ ổn định giảm so với trường hợp đất đá ở trạng thái tự nhiên.

– Kết quả kiểm toán ổn định các bãi thải (trong và ngoài) thuộc các khu vực khác nhau ở trạng thái tự nhiên và bão hoà cho kết quả các bãi thải đều ổn định, không có hiện tượng trôi trượt bãi thải với hệ số ổn định n > 1,3. Tuy nhiên, một số bãi thải vẫn xảy ra hiện tượng xói lở, rửa trôi đất đá khi mưa lũ.

– Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu nhóm thực hiện đã đề xuất các thông số bãi thải đảm bảo ổn định trong điều kiện lượng mưa từ 1.100÷1.600 mm. Chiều cao bão thải từ 120÷540 m; góc nghiêng sườn tầng từ 28÷350; góc dốc bãi thải từ 14÷290; hệ số ổn định khi ở trạng thái khô nk = 1,373÷1,794, còn ở trạng thái khi bão hòa nước nbh = 1,311÷1,598.

Ở nội dung thứ Ba, Công trình đã nghiên cứu lựa chọn công nghệ, các thông số đổ thải hợp lý cho các bãi thải của các mỏ than lộ thiên thuộc TKV trong điều kiên tự nhiên và điều kiện đất đá sũng nước. Theo đó:

– Các khu vực bãi thải xa khu dân cư, các công trình cần bảo vệ, phía dưới không có khai thác hầm lò, tiến hành đổ thải với chiều cao tầng 40÷50 m (BT mỏ Na Dương 10÷20 m), chiều rộng mặt tầng thải 25-30 m (điều kiện thuờng) còn trong điều kiện biến đổi khí hậu chiều rộng sẽ tăng lên là 45÷50 m.

Đối với các bãi thải gần khu vực dân cư, khi đổ thải đến ranh giới kết thúc, chiều rộng tầng thải của 3 tầng dưới cùng từ dưới lên lần lượt là 30 m, 25 m, 20 m, các tầng phía trên có chiều rộng tối thiểu đảm bảo bằng (0,6÷1)h, góc dốc sườn tầng từ 30÷350.

Đối với khu vực gần các cửa lò, hoặc có các công trình hầm lò phía dưới, đổ thải theo trình tự từ dưới lên trên với chiều cao tầng từ 5÷10 m.

– Đối với các mỏ sử dụng liên hợp ô tô – băng tải để vận chuyển đất đá và đổ thải như mỏ Cao Sơn, Na Dương. Chiều cao tầng thải khi sử dụng băng tải từ 20÷50m. Kết thúc sẽ sử dụng ô tô + máy gạt đổ ốp xung quanh, tạo tầng có chiều cao 20÷30m (Bãi thải mỏ Na Dương h = 10÷20m).

– Khoảng cách từ chân tầng thải khi kết thúc đến mép trên của công trình bảo vệ bãi thải tối thiểu từ 25÷30 m (khi tầng kết thúc dưới cùng từ 20÷30 m).

Ở nội dung thứ Tư, Công trình đã dự báo lượng nước chảy trên các bãi thải ngoài và bãi thải trong, trong điều kiện biến đổi khí hậu, lựa chọn giải pháp thoát nước cho các bãi thải của các mỏ lộ thiên trong điều kiện biến đổi khí hậu, nghiên cứu, đề xuất giải pháp thoát nước ngoài khu vực lân cận khi kết nối với công trình thoát nước trong bãi thải, đồng thời nghiên cứu, đề xuất các công trình bảo vệ bãi thải nhằm giảm thiểu ảnh hưởng đến các công trình xung quanh trên mặt và hầm lò. The đó:

– Nguồn nước chảy vào các bãi thải chủ yếu là nước mưa và một phần từ đá gốc. Từ 2011¸2014 lượng mưa hàng năm không đáng kể, năm 2015 lượng mưa tăng đột biến, lượng nước chảy vào các bãi thải cũng tăng từ 2÷4 lần.

– Giải pháp thoát nước phù hợp là nạo vét các suối, kênh mương dẫn nước, các khe rạch và xây dựng hệ thống đê ngăn đất đá thải và các hồ lắng bùn xử lý nước kết nối các công trình thoát nước lân cận.

– Các công trình bảo vệ toàn bãi thải được xây dựng ngay trong quá trình đổ thải và khi kết thúc bãi thải. Thuờng xuyên củng cố hệ thống tầng thải, đai thoát nước của các bãi thải, phân chia thoát nước hợp lý. Trồng cây xanh để hạn chế xói mòn, sạt lở bãi thải tại các khu vực kết thúc đổ thải.

– Đối với các khu vực khai thác hầm lò dưới moong lộ thiên cần thoát nước bãi thải bằng các giải pháp như lựa chọn trình tự đổ thải, ngăn nước mặt và xây dựng các công trình tiêu nước phù hợp.

Từ những nghiên cứu trên, để đảm bảo an toàn cho các bãi thải, phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu, cần áp dụng các giải pháp như sau:

– Đối với các bãi thải xa khu dân cư, các công trình cần bảo vệ, đổ thải với chiều cao tầng 40÷50 m (BT mỏ Na Dương 10÷20 m), chiều rộng mặt tầng thải 25¸30 m (với điều kiện bình thường) còn thực hiện trong điều kiện biến đổi khí hậu chiều rộng sẽ tăng lên là 45÷50 m. Góc nghiêng sườn tầng thải từ 35÷400.

– Đối với bãi thải ở gần khu vực dân cư và các công trình cần bảo vệ, tiến hành đổ thải với chiều cao tầng từ 20÷50 m, chiều rộng mặt tầng từ 25÷40 m (trong mùa khô) và từ 35÷55 m (trong mùa mưa). Góc nghiêng sườn tầng thải từ 35÷400.  Khi đổ thải đến ranh giới kết thúc, chiều cao tầng từ 20÷30 m (BT mỏ Na Dương từ 10÷20 m), chiều rộng tầng thải của 3 tầng dưới cùng từ dưới lên lần lượt là 40 m, 30 m, 25÷30 m, các tầng phía trên có chiều rộng tối thiểu đảm bảo bằng (0,8÷1)h, góc nghiêng sườn tầng từ 30÷350 (BT trong góc nghiêng 300, BT Na Dương 28÷300).

– Đối với các mỏ sử dụng liên hợp ô tô – băng tải (mỏ Cao Sơn, Na Dương). Chiều cao tầng thải khi sử dụng băng tải từ 20÷50 m. Kết thúc sẽ cải tạo về chiều cao 20÷30 m (BT mỏ Na Dương h = 10÷20 m).

– Khi đổ thải nên đổ thải theo hình cánh cung lồi hoặc phẳng, nếu trường hợp không thực hiện được thì không được để cho dòng nước tập trung vào khu vực đó.

Các giải pháp thoát nước:

– Giải pháp thoát nước trong quá trình đổ thải bao gồm tạo mặt tầng thải nghiêng, tạo rãnh thoát nước và hố tiêu năng dọc chân tầng. Khi kết thúc bãi thải tạo đê bao mép tầng và chân bãi thải, dốc nước ngang tầng.

– Để hạn chế nước ngấm xuống các công trình hầm lò phía dưới có thể sử dụng: rải lớp sét trên mặt và phía dưới đáy; rải lớp vỉa địa kỹ thuật hoặc lớp chống thấm phía trên mặt bãi thải; hoặc sử dụng các giải pháp về khoan lỗ khoan tháo nước, khoan tháo nước từ trong lò.

– Củng cố lại hệ thống các tầng bãi thải, nạo vét, gia cố hệ thống thoát nước, hồ lắng, đê đập chắn đất đá, làm mới đê đập chắn đất đá tại các vị trí xung yếu; củng cố hệ thống tầng thải, đai thoát nước của các bãi thải, phân chia thoát nước hợp lý…

– Tại những khu vực kết thúc đổ thải trồng cây, phủ xanh để hạn chế xói mòn, sạt lở tầng thải, bãi thải.

Tại Hội nghị, các thành viên tham dự đã đánh giá cao kết quả thực hiện của Công trình, từ những nghiên cứu, phân tích logic, đến các giải pháp thực hiện có tính khoa học và khả thi trong thực hiện, thống nhất thông qua kết quả nghiên cứu của Công trình, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến để các cán bộ thực hiện hoàn thiện Báo cáo./.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Tổng Công ty Đông Bắc

Ngày 5/5/2016, Phó Viện trưởng Đào Hồng Quảng đã chủ trì buổi làm việc với một số cán bộ kỹ thuật Tổng Công ty Đông Bắc về việc triển khai áp dụng một số công nghệ phù hợp với điều kiện khai thác tại các đơn vị thuộc Tổng Công ty Đông Bắc. Buổi làm việc của Phó Viện trưởng có sự tham dự của một số lãnh đạo, cán bộ kỹ thuật liên quan của các Phòng: CNKT hầm lò, Máy&TB mỏ, Xây dựng công trình ngầm và mỏ

Trong những năm qua, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin và Tổng Công ty Đông bắc đã phối hợp triển khai áp dụng nhiều giải pháp kỹ thuật công nghệ vào thực tiến sản xuất, góp phần đảm bảo an toàn và nâng cao hiệu quả sản xuất , trong đó có thể kể đến các dự án đầu tư áp dụng thử nghiệm các loại giá khung thuỷ lực di động tại các đơn vị sản xuất than hầm lò; thiết kế, lắp đặt đưa vào hoạt động các hệ thống quan trắc khí mêtan tự động; thiết kế, lắp đặt và đưa vào hoạt động các dây chuyền tuyển bằng công nghệ huyền phù tự sinhnhằm nâng cao chất lượng than và tận thu than trong bã sàng; đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp tiết kiệm năng lượng tại các đơn vị sản xuất; ….

Với mục tiêu đổi mới công nghệ khai thác than hầm lò nói chung, nhất là trong điều kiện vỉa dốc đứng, mỏng đến dày trung bình tại các mỏ thuộc Tổng Công ty Đông Bắc, nhằm nâng cao mức độ cơ giới hoá các công đoạn sản xuất, đảm bảo an toàn, tăng năng xuất và giảm giá thành khai thác than, tại buổi làm việc hôm nay, hai bên đã cùng trao đổi về những loại hình công nghệ phù hợp với điều kiện địa chất và cấu trúc vỉa nói trên.

Kết quả buổi làm việc là cơ sở để hai bên tiếp tục hợp tác trong thời gian tới./

Viện KHCN Mỏ: họp rà soát, thống nhất nội dung các đề tài, nhiệm vụ KHCN đề xuất Bộ Công Thương 2017

Ngày 25 tháng 4 năm 2016, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ tổ chức họp rà soát, thống nhất  nội dung các đề tài, nhiệm vụ KHCN đề xuất Bộ Công thương năm 2017.

Dưới sự chủ trì của TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng, tham dự cuộc họp gồm toàn thể Ban lãnh đạo Viện, Phó Viện trưởng, TS. Trương Đức Dư, ThS. Hoàng Minh Hùng, TS. Đào Hồng Quảng, cùng trưởng các phòng chuyên môn và Phó Giám đốc Trung tâm An toàn mỏ.

Việc đề xuất các đề tài, dự án, nhiệm vụ khoa học công nghệ các cấp luôn được Lãnh đạo Viện quan tâm, chỉ đạo. Ngay đầu năm 2016, các bộ môn, các đơn vị trong Viện đã được giao nghiên cứu, lựa chọn và đề xuất các đề tài, dự án KHCN cho năm 2017. Theo đó, các đề tài, nhiệm vụ KHCN được đề xuất ở các lĩnh vực tập trung vào các nội dung, bao gồm: nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao năng suất và sản lượng khai thác than và khoáng sản; nghiên cứu công nghệ tuyển, chế biến nhằm nâng cao giá trị sử dụng than; Thiết kế, chế tạo nội địa hoá các sản phẩm cơ khí, chế tạo máy, thiết bị điện; nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao an toàn trong khai thác than hầm lò,….

Cuộc họp TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng đã cùng các trưởng, phó phòng các đơn vị nghiên cứu tập trung rà soát, thống nhất nội dung cụ thể từ tên đề tài, nhiệm vụ, mục tiêu, nội dung nghiên cứu chính của từng đề tài, nhiệm vụ KHCN dự kiến đề xuất ở cấp Bộ Công Thương năm 2017.

Sau khi xem xét, TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng đã lựa chọn 15/21 đề tài, đề xuất lên Bộ Công Thương cho kế hoạch khoa học công nghệ của Bộ năm 2017./.