Bộ Công Thương nghiệm thu đề tài KHCN năm 2014 do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin chủ trì thực hiện

Như tin đã đưa, ngày 1.7.2015, Hội đồng Khoa học công nghệ Bộ Công Thương đã tổ chức nghiệm thu các đề tài do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin chủ trì thực hiện trong năm 2014. Ngày 2.7.2015, Hội đồng Khoa học công nghệ Bộ Công Thương tiếp tục nghiệm thu 2 đề tài, bao gồm:

1. Đề tài “Nghiên cứu đề xuất công nghệ sàng tuyển than hợp lý cho một số mỏ nhỏ ngoài vùng Quảng Ninh”. Chủ nhiệm: ThS. Nguyễn Hữu Nhân

Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài được thành lập theo Quyết định 5426 ngày 2.6.2015 của Bộ Công Thương, gồm 9 thành viên do TSKH.Đinh Ngọc Đăng làm Chủ tịch

Đề tài đã nghiên cứu, đánh giá tổng quan về công nghệ tuyển than trên thế giới; khảo sát đánh giá hiện trạng công nghệ sàng tuyển, chế biến và tiêu thụ than tại mỏ than Khánh Hòa và mỏ than Núi Hồng. Qua đó, đánh giá tính chất than và tuyển thử nghiệm các mẫu than trên các thiết bị tuyển qui mô phòng thí nghiệm để lựa chọn dây chuyền công nghệ sàng tuyển phù hợp cho từng mỏ. Từ các kết quả nghiên cứu thử nghiệm, đề tài đã lựa chọn dây chuyền công nghệ sàng tuyển phù hợp và lập phương án khả thi xây dựng dây chuyền sàng tuyển nâng cao chất lượng than cho mỏ than Khánh Hòa.

Đề tài đã được Hội đồng KHCN cấp Bộ Công thương nghiệm thu và xếp loại khá.

2. Đề tài “Nghiên cứu các sơ đồ công nghệ khai thác chọn lọc hợp lý cho các mỏ quặng sắt lộ thiên Việt Nam”.

Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài được thành lập theo Quyết định 5426 ngày 2.6.2015 của Bộ Công Thương, gồm 9 thành viên do TS. Nguyễn Sỹ Hội làm Chủ tịch

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty Palaris (Australia)

 Ngày 30.6.2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty Palaris (Australia) về thiết kế hầm mỏ.

Đại diện Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, ông Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng cùng một số phòng có liên quan đã làm việc với ông John Pala, Giám đốc điều hành Công ty Palaris.

Tại buổi làm việc, ông Trương Đức Dư đã giới thiệu với ông John Pala về các lĩnh vực hoạt động của Viện, các dự án khai thác mỏ hầm lò Viện đã và đang thực hiện trong thời gian qua.

 

Ông John Pala đã giới thiệu về các lĩnh vực hoạt động của Công ty Palaris, các chương trình hiện đại hoá mỏ hầm lò. Hiện nay, Công ty Palaris đang hỗ trợ ngành công nghiệp khai thác tài nguyên trong việc phát triển nền kinh tế theo chương trình hiện đại hoá các mỏ hầm lò, tập trung vào các vấn đề như: Thực hiện vốn chi phí thấp; Tăng đầu ra và sản lượng mỏ; Đảm bảo nhất quán với thực tiễn sản phẩm quốc tế; Nâng cao an toàn; Nâng cao khả năng tài chính. Chương trình nghiên cứu thực hiện các nội dung như: Nghiên cứu mô hình hoá tài nguyên; Hoạch định hầm lò (Sơ đồ quy hoạch, phương pháp khai thác, lịch trình sản xuất); Kế hoạch marketing; Môi trường và chấp thuận; Kỹ thuật và hạ tầng; Sức khoẻ nghề nghiệp và những yêu cầu về an toàn; Chế biến khoáng sản; Đánh giá tài chính; Thực hiện dự án.

Kết quả buổi làm việc là cơ sở để Viện và Công ty Palaris hợp tác nhằm ứng dụng vào các mỏ Việt Nam trong thời gian tới./.

TKV: Vững vàng làm chủ công nghệ


Hiện nay, Tập Ä‘oàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) chá»§ trương phát triển ngành Than bá»n vững theo hướng đổi má»›i công nghệ, triển khai áp dụng cÆ¡ giá»›i hoá các khâu khấu than, chống giữ lò chợ, vận tải và đào lò tại những khu vá»±c Ä‘iá»u kiện địa chất cho phép. Trong đó cÆ¡ giá»›i hoá khai thác và áp dụng công nghệ vì neo trong đào lò đóng vai trò quan trá»ng

 

Hiện nay, trong Tập Ä‘oàn có 13 đơn vị khai thác than hầm lò vá»›i 478 lò chợ hoạt động trong kỳ và 196 lò chợ khai thác đồng thá»i. Cùng vá»›i việc sản lượng khai thác hầm lò ngày càng tăng, số lượng mét đào lò cá»§a các đơn vị trong TKV cÅ©ng ngày má»™t lá»›n. Nếu như năm 2014 mét lò đào toàn TKV là 175.000m thì năm 2015 tăng lên 295.000m. Trước yêu cầu đó, vấn đỠáp dụng công nghệ má»›i, tiên tiến trong đào lò là rất cần thiết, trong đó công nghệ đào chống lò bằng vì neo sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ đào lò, giảm chi phí sản xuất, cải thiện Ä‘iá»u kiện làm việc, đảm bảo an toàn cho ngưá»i lao động. Thá»±c hiện yêu cầu này, TKV đã chỉ đạo nghiên cứu, tổ chức chống lò bằng vì neo tại các đơn vị ngành Than như: Mông Dương, Mạo Khê, Vàng Danh, Dương Huy, Khe Chàm, Quang Hanh… Có thể khẳng định, đột phá quan trá»ng nhất cá»§a Tập Ä‘oàn là sau năm 2005, các đơn vị thành viên đã thá»±c hiện chống vì thuá»· lá»±c thay chống gá»— trong hầm lò, góp phần giảm tổn thất, tăng sản lượng lò chợ từ 50.000-60.000 tấn/năm lên 150.000-200.000 tấn/năm.

Äến nay, các đơn vị khai thác hầm lò cá»§a TKV đã làm chá»§ công nghệ và xây dá»±ng được lá»±c lượng cán bá»™ kỹ thuật có đủ trình độ, năng lá»±c để thiết kế, chỉ đạo, giám sát việc thi công chống lò bằng vì neo. Nếu tính từ năm 1995 đến hết năm 2014, toàn Tập Ä‘oàn đã có 21.620mét lò được chống bằng vì neo, trong đó lò xây dá»±ng cÆ¡ bản có 6.891m và lò chuẩn bị sản xuất là 14.639m. Tá»· lệ than khai thác các lò chợ có lò chợ sá»­ dụng cá»™t thuá»· lá»±c đơn, giá chống/khung chống thuá»· lá»±c di động so vá»›i tổng số than hầm lò đã đạt trên 95%. Nhìn chung các đơn vị đã chá»§ động đầu tư các thiết bị để đồng bá»™ dây chuyá»n đào lò,  đầu tư đồng bá»™ dây chuyá»n thiết bị phục vụ thi công tại các hạng mục đưá»ng lò chính cá»§a các dá»± án. ÄÆ°á»£c biết, TKV Ä‘ang đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các công nghệ cÆ¡ giá»›i hoá đồng bá»™ đã đầu tư tại Vàng Danh, Nam Mẫu, Khe Chàm, Uông Bí, Mạo Khê. Việc áp dụng thành công công nghệ lò này đã góp phần quan trá»ng trong lá»™ trình hiện đại hoá ngành công nghiệp khai thác khoáng sản và nâng cao sản lượng, mức độ an toàn, cải thiện Ä‘iá»u kiện làm việc cho ngưá»i lao động.
Äặc biệt, trước những khó khăn do Ä‘iá»u kiện địa chất phức tạp, khai thác than xuống sâu, áp lá»±c lá»›n, tiá»m ẩn nguy cÆ¡ TNLÄ, cháy, nổ khí má» dẫn đến tai nạn lao động, TKV chá»§ động áp dụng các giải pháp công nghệ trong sản xuất. Tiêu biểu như việc đưa hệ thống kiểm soát khí cháy nổ mê tan tá»± động vào trong hầm lò đã giúp Tập Ä‘oàn làm chá»§ trong việc đánh giá hàm lượng khí mê tan trong các vỉa than. NhỠđó, hàng loạt hệ thống tá»± động quan trắc khí mê tan tập trung đã được đưa vào hoạt động ở hầu hết các má» hầm lò và được kết nối vá»›i mạng internet để giám sát từ xa. Việc thành lập Trung tâm An toàn má» cÅ©ng đã đưa trình độ công nghệ quản lý khí má» cá»§a TKV sánh ngang tầm các nước phát triển trên thế giá»›i.

Trao đổi vá»›i chúng tôi, ông Nguyá»…n Ngá»c CÆ¡, Phó Tổng Giám đốc Tập Ä‘oàn, Giám đốc Trung tâm Ä‘iá»u hành Quảng Ninh cho biết: Äối vá»›i khai thác hầm lò, Tập Ä‘oàn tiếp tục hoàn thiện các công nghệ cÆ¡ giá»›i hoá đồng bá»™ khai thác than lò chợ và tăng cưá»ng sá»­ dụng đồng bá»™ thiết bị cÆ¡ giá»›i hoá đào lò để tăng tốc độ đào lò chuẩn bị, sá»­ dụng rá»™ng rãi công nghệ chống như vì neo bê tông cốt thép, neo dẻo cốt thép, bê tông phun trong các đưá»ng lò. Äối vá»›i khai thác lá»™ thiên, Tập Ä‘oàn sẽ tiếp tục đầu tư thiết bị xúc bốc, vận tải có công suất lá»›n trong khai thác than lá»™ thiên để giảm chi phí. Äặc biệt, hiện nay Tập Ä‘oàn Ä‘ang nghiên cứu trình tá»± khai thác đổ thải vùng Cẩm Phả, cÆ¡ cấu lại các má» Cao SÆ¡n, Cá»c Sáu, Äèo Nai để khai thác tối ưu, triệt để tài nguyên, nâng cao hiệu quả sản xuất. Nghiên cứu trình tá»± kết thúc khai thác các má» lá»™ thiên vùng Hòn Gai kết hợp hoàn thổ cải tạo phục hồi môi trưá»ng đạt hiệu quả cao nhất và giảm chi phí sản xuất. Äối vá»›i khâu sàng tuyển, chế biến than, Tập Ä‘oàn sẽ áp dụng công nghệ má»›i, tá»± động hoá tối Ä‘a các công Ä‘oạn để giảm ô nhiá»…m môi trưá»ng, giảm khâu lao động nặng nhá»c cho ngưá»i lao động…

Đoàn cán bộ TKV công tác tại Trung Quốc và làm việc với một số đối tác về đẩy mạnh phát triển cơ giới hóa khai thác than hầm lò

Từ ngày 10/6/2015, đoàn cán bộ Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam do Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải làm trưởng đoàn đã có chuyến công tác tại Trung Quốc.

Thành phần tham dự đoàn công tác gồm có Trưởng đoàn, ông Đặng Thanh Hải, Tổng Giám đốc, ông Vũ Thành Lâm, Thành viên HĐTV, ông Khuất Mạnh Thắng, Phó Tổng Giám đốc, cùng Giám đốc các công ty khai thác than hầm lò: Vàng Danh, Nam Mẫu, Thống Nhất, Khe Chàm, Dương Huy, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, Giám đốc Công ty Tư vấn Đầu tư mỏ và công nghiệp, Công ty Cổ phần Du lịch và Thương mại VINACOMIN.
Với mục tiêu hợp tác với các đối tác Trung Quốc nhằm nâng cao năng lực cơ giới hóa đồng bộ khai thác than hầm lò trong TKV, đoàn công tác đã làm việc với Công ty Hữu hạn Cổ phần tập đoàn cơ khí mỏ Trịnh Châu (ZMJ) và Viện nghiên cứu thiết kế than Nam Kinh (CCTEG). Dưới sự chứng kiến của Lãnh đạo Tập đoàn, tại Trịnh Châu, ông Khuất Mạnh Thắng, Phó Tổng Giám đốc đã đại diện TKV, ký Biên bản làm việc với ông Xiang Jiayu, Phó Tổng Giám đốc ZMJ, ông Trần Tú Ba, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã ký biên bản ghi nhớ với ông You Cheng Wu, Viện trưởng CCTEG.
 Trong Biên bản làm việc giữa TKV và ZMJ (ngày 12/6/2015) đã ghi nhận việc hợp tác giữa hai bên, trong việc nâng cao trình độ cơ giới hóa khai thác than, đồng thời hợp tác chế tạo tại Việt Nam các thiết bị, linh kiện trong hệ thống thiết bị cơ giới hóa đồng bộ khai thác than nói trên. Tại Biên bản ghi nhớ giữa IMSAT với CCTEG (ngày 13/6/2015) đã thống nhất, Viện nghiên cứu thiết kế Nam Kinh (Trung Quốc) hợp tác với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ (Việt Nam) trong việc tư vấn, thiết kế áp dụng các giải pháp công nghệ, thiết bị phù hợp nhằm nâng cao năng lực cơ giới hóa đồng bộ khai thác than hầm lò cho các mỏ của TKV.
    Kết quả chuyến công tác là cơ sở trong việc hợp tác giữa TKV với các đối tác Trung Quốc nhằm từng bước nâng cao năng lực cơ giới hóa khai thác than hầm lò của TKV./.

Tận dụng triệt để nguồn chất thải bùn đỏ

Đề tài “Nghiên cứu công nghệ sản xuất thép và vật liệu xây dựng không nung từ nguồn thải bùn đỏ trong quá trình sản xuất alumin tại Tây Nguyên” thuộc Chương trình Tây Nguyên 3 do TS. Vũ Đức Lợi thuộc Viện Hóa học làm chủ nhiệm được Hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước đánh giá loại xuất sắc.

Đây được coi là triển vọng cho việc xử lý và tận dụng triệt để nguồn chất thải bùn đỏ, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững công nghiệp sản xuất alumin tại Tây Nguyên.

Đề tài nghiên cứu các thành phần và tính chất của bùn đỏ trong quá trình sản xuất alumin tại nhà máy alumin Lâm Đồng. Bùn đỏ là chất thải có tính kiềm cao, được phân loại chất thải nguy hại. Thành phần sắt trong bùn đỏ cao, hàm lượng Fe2O3 trong tất cả các mẫu đều trên 50%, hàm lượng tổng sắt (T-Fe >35%), do vậy, có thể định hướng sử dụng làm tinh quặng sắt, gang và thép. Tuy nhiên, quy trình sản xuất thép từ bùn đỏ dựa trên công nghệ hoàn nguyên trực tiếp có nhược điểm là tiêu tốn năng lượng, dẫn đến giá thành cao và khó đáp ứng được về hiệu quả kinh tế.

Để khắc phục nhược điểm này, nhóm nghiên cứu đã xây dựng quy trình công nghệ sản xuất tinh quặng sắt, sắt xốp và thép từ bùn đỏ theo công nghệ tách khô, thiêu từ hóa, nghiền, tuyển từ, thu hồi tinh quặng sắt và sản xuất sắt xốp, thép. Quy trình công nghệ có ưu điểm như: hoàn nguyên oxit sắt trong bùn đỏ về dạng oxit sắt từ Fe3O4 và dựa trên việc phân tích tỷ lệ Fe2O3/FeO; quy trình tạo cầu, sử dụng đôlômit vảy đáp ứng yêu cầu về thấu khí trong giai đoạn thiêu kết và tăng hiệu suất thu hồi sắt của bùn đỏ; tác nhân khử sử dụng khí CO dư của lò cao và bổ sung than trong quá trình hoàn nguyên nhằm kiểm soát quá trình hoàn nguyên về sắt từ thông qua việc đánh giá tỷ lệ Fe2O3/FeO; sử dụng vôi sống CaO trong quá trình thiêu kết làm chất kết dính và loại bỏ nhôm trong giai đoạn tuyển từ có hiệu quả kinh tế hơn so với dùng natricacbonat Na2CO3 mà các công nghệ trước đây đã sử dụng; sản phẩm tinh quặng sắt có hàm lượng T-Fe đạt 62,7%, sắt xốp có hàm lượng T-Fe đạt 90,1%, tỷ lệ sắt kim loại/tổng sắt đạt 83,4%. Mẫu thép thu được từ sắt xốp đạt tiêu chuẩn mác SD 390 của Nhật Bản và mác thép CT5.

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành sản xuất thử nghiệm với quy mô công nghiệp mẻ 200 tấn, hiệu suất thu hồi 1 tấn tinh quặng sắt/2,4 tấn bùn đỏ khô, sản phẩm tinh quặng sắt đạt 62,7%, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu để sản xuất gang và sắt xốp. Các tính toán về hiệu quả kinh tế cho thấy, sản xuất ra 1 tấn tinh quặng sắt có chi phí thấp hơn so với giá sản phẩm thương mại trên thị trường, chứng tỏ tính khả thi của việc áp dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất.

Cùng với việc xây dựng quy trình công nghệ sản xuất tinh quặng sắt, sắt xốp và thép, đề tài cũng xây dựng được quy trình công nghệ sản phẩm gạch không nung sản xuất từ bùn đỏ, xỉ luyện thép và sắt xốp theo công nghệ geopolymer. Được sử dụng hai phương pháp là nén ép và đổ khuôn, sản phẩm gạch đạt TCVN 6476:1999, các chỉ tiêu về cường độ nén đạt mác cao hơn so với tiêu chuẩn quy định và bảo đảm các quy định về môi trường. Ngoài ra, đề tài đã đăng ký 2 phát minh sáng chế liên quan đến công nghệ sản xuất tinh quặng sắt, sắt xốp và thép từ bùn đỏ. Theo hội đồng nghiệm thu, những kết quả nghiên cứu của đề tài “Nghiên cứu công nghệ sản xuất thép và vật liệu xây dựng không nung từ nguồn thải bùn đỏ trong quá trình sản xuất alumin tại Tây Nguyên” là những đóng góp mới cho khoa học và có thể ứng dụng trong thực tiễn, cần sớm xây dựng nghiên cứu dự án khả thi để sản xuất tinh quặng sắt, gang và thép từ bùn đỏ.

Bộ Công Thương: nghiệm thu đề tài do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin chủ trì thực hiện

Ngày 20/5/2015, Bộ Công Thương tổ chức nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ đổi mới, hiện đại hóa công nghệ trong lĩnh vực khai thác, chế biến than và khoáng sản rắn Việt Nam”.

 

Hội đồng khoa học công nghệ cấp Nhà nước được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công Thương, số 1852/QĐ-BCT, ngày 06/3/2014, bao gồm 11 thành viên. TSKH. Đinh Ngọc Đăng, Chủ tịch Hội đồng.

Đề tài này thuộc Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015 tầm nhìn đến năn 2025.

Đơn vị chủ trì: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin.

Chủ nhiệm đề tài: KS. Vũ Tuấn Sử

Sau quá trình thực hiện, đề tài đã tập trung nghiên cứu một số nội dung chính như:

– Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn đánh giá mức độ đổi mới, hiện đại hóa công nghệ.

– Thực trạng áp dụng cơ giới hóa, đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong lĩnh vực khai thác, chế biến than và khoáng sản rắn Việt Nam.

– Xây dựng các tiêu chí đánh giá mức độ đổi mới, hiện đại hóa công nghệ trong lĩnh vực khai thác, sàng tuyển than và khoáng sản rắn của Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trải qua quá trình đổi mới, công nghiệp hoá và hiện đại hoá, ngành công nghiệp khai thác chế biến than khoáng sản Việt Nam đã liên tục phát triển mạnh mẽ kể cả về quy mô công suất và chất lượng. Trình độ công nghệ khai thác và chế biến than khoáng sản không ngừng được đổi mới và hiện đại, từ thủ công phát triển lên cơ giới, sau đó là tự động hoá. Chất lượng sản phẩm hàng hoá đã đạt các tiêu chuẩn ISO phục vụ trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có bộ tiêu chí đánh giá mức độ đổi mới hiện đại hoá công nghệ trong các ngành sản xuất công nghiệp nói chung và trong lĩnh vực khai thác, chế biến than khoáng sản nói riêng. Để đánh giá kết quả của quá trình công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc xây dựng bộ tiêu chí là rất cần thiết và cấp bách.

Đề tài đã hoàn thành xây dựng 11 bộ tiêu chí đánh giá mức độ đổi mới, hiện đại hoá công nghệ tương ứng các loại dây chuyền sản xuất, cho các đơn vị theo mô hình tổ chức sản xuất trong Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam và 1 bộ tiêu chí phục vụ công tác đánh giá nhanh. Các bộ tiêu chí trên đã chứa đầy đủ các công cụ để tiến hành đánh giá đổi mới công nghệ trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản rắn của Việt Nam.

Đề tài đã triển khai áp dụng thử nghiệm bộ tiêu chí đánh giá mức độ đổi mới hiện đại hoá công nghệ tại một số đơn vị điển hình trong lĩnh vực khai thác, chế biến than khoáng sản thuộc Tập đoàn Công nghiệp than khoáng sản Việt Nam. Kết quả đánh giá thử nghiệm áp dụng các bộ tiêu chí trên tại Công ty than Nam Mẫu, Công ty than Núi Béo, Công ty tuyển than Cửa Ông và Công ty mỏ tuyển đồng Sin Quyền đã cho thấy các bộ tiêu chí phản ánh tương đối chính xác thực tế mức độ đổi mới và hiện đại hóa công nghệ của các đơn vị trên trong giai đoạn 2010¸2012. Trên cơ sở đó đã khuyến nghị các đơn vị tiếp tục đổi mới và hiện đại hoá công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm và bảo vệ môi trường

Các bộ tiêu chí đánh giá mức độ đổi mới, hiện đại hoá công nghệ do Đề tài xây dựng có thể triển khai áp dụng cho các đơn vị còn lại trong ngành khai thác chế biến khoáng sản Việt Nam.

Hội đồng khoa học đã ghi nhận những kết quả đã thực hiện đề tài. Về khối lượng công việc, đã hoàn thành, về nội dung, đúng theo đề cương được duyệt, đảm bảo thời gian thực hiện.

Đánh giá của các thành viên Hội đồng, kết quả đề tài đạt 72,1 điểm và thống nhất nghiệm thu đề tài./.

Đẩy mạnh chống lò bằng vì neo ở những điều kiện phù hợp

Trong các công nghệ chống lò, việc chống lò bằng vì neo đảm bảo tiết kiệm vật tư và thi công nhanh nhất. Tuy nhiên, chống lò bằng vì neo phụ thuộc cơ bản vào điều kiện địa chất, khu vực đất đá phải ổn định, phân lớp rõ ràng…

Thực tế, việc áp dụng chống lò bằng vì neo tại các mỏ hầm lò đã được Tập đoàn triển khai thực hiện trên 10 năm nay. Tập đoàn cũng đã ban hành và áp dụng nhiều cơ chế nhằm khuyến khích các đơn vị chống lò bằng vì neo. Mặc dù còn một số hạn chế, nhưng đã có nhiều đơn vị nghiên cứu, tổ chức chống lò bằng vì neo hiệu quả từ nhiều năm qua như: Mông Dương (năm 1989); Mạo Khê, Vàng Danh (năm 1994); Dương Huy (từ năm 1999-2001); Khe Chàm, Quang Hanh (năm 2009); Nam Mẫu, Hà Lầm (2013)… Lực lượng cán bộ kỹ thuật các đơn vị đã cơ bản có đủ trình độ, năng lực để thiết kế, chỉ đạo, giám sát việc thi công chống lò bằng vì neo. Tính từ năm 1995 đến năm 2014, toàn Tập đoàn đã có 21.620 mét lò được chống bằng vì neo, trong đó lò XDCB có 6.891m và lò CBSX là 14.639m. Đặc biệt trong quý I/2015 đã có một số đơn vị trong Tập đoàn thực hiện áp dụng khá tốt kế hoạch đào chống lò vì neo như: Than Quang Hanh 160/200m (đạt 80% KH năm), Than Mạo Khê 136/275m (đạt 49,5%KH năm), Than Hà Lầm 105/450m (đạt 23,3%KH năm)…

Trao đổi về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai công nghệ chống neo, các đơn vị đều cho rằng, trong việc hoạch định các khu vực chống neo gặp khó khăn do công tác thăm dò địa chất chi phí khá tốn kém. Ngoài ra, cũng có những khó khăn như về điều kiện thi công neo, về đồng bộ thiết bị, máy khoan neo, máy ném khí di động, dụng cụ còn thiếu đồng bộ…

Về vấn đề này, T.S Nguyễn Anh Tuấn – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn cho rằng, cơ chế của Tập đoàn là khuyến khích chống lò bằng vì neo áp dụng thông qua đơn giá chống lò bằng vì neo được khuyến khích tăng. Thông qua đó, các đơn vị cần chủ động đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng chống lò bằng vì neo ở mức cao nhất trong các điều kiện cho phép; xem xét đầu tư đồng bộ thiết bị thi công neo, trong đó các đơn vị tư vấn cần phối hợp với các mỏ để lựa chọn thiết bị phù hợp. Các đơn vị cần phối hợp với các đơn vị tư vấn trong việc nghiên cứu điều kiện áp dụng, thiết kế, quy trình công nghệ chống neo; đảm bảo thi công đúng quy trình; những vướng mắc gặp phải trong thực tế triển khai, các đơn vị cần phản ánh kịp thời cho lãnh đạo Tập đoàn để khắc phục.

Mới đây, làm việc với các đơn vị về việc tăng cường áp dụng công nghệ chống lò bằng vì neo, đồng chí Đặng Thanh Hải, Tổng Giám đốc Tập đoàn nhấn mạnh, theo định hướng phát triển của ngành Than, do sản lượng khai thác hầm lò ngày càng tăng nên số lượng mét đào lò cũng ngày một lớn. Nếu như năm 2014 mét lò đào toàn Tập đoàn là 175.000m thì năm 2015 tăng lên gần 300.000 mét. Việc áp dụng các công nghệ mới trong đào lò là rất cần thiết, trong đó công nghệ đào chống lò bằng vì neo sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ đào lò, giảm chi phí sản xuất, cải thiện điều kiện làm việc và đảm bảo an toàn cho người lao động. Về cơ chế, Ban lãnh đạo điều hành Tập đoàn sẽ tiếp tục có cơ chế phù hợp để khuyến khích các đơn vị đẩy mạnh áp dụng công nghệ chống lò bằng vì neo.

Để việc triển khai áp dụng công tác đào chống vì neo trong hầm lò được phổ biến tại các đơn vị trong Tập đoàn, thiết nghĩ, các đơn vị cần đổi mới tư duy và cách tiếp cận, chủ động xây dựng kế hoạch đề xuất đầu tư thiết bị công nghệ; rà soát, điều chỉnh bổ sung hoàn thiện quy trình công nghệ; có kế hoạch đào tạo, tập huấn xây dựng nguồn nhân lực tiếp cận công nghệ để đưa công nghệ đào chống lò bằng vì neo vào sản xuất đạt hiệu quả cao hơn.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ họp nghiệm thu các chuyên đề dự án sản xuất thực nghiệm đầu đo CO, CH4

Ngày 27 tháng 4 năm 2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc để bổ sung hoàn thiện nội dung báo cáo kết quả thực hiện Dự án KHCN sản xuất thực nghiệm đầu đo CO, CH4.

Tham dự buổi làm việc bao gồm các cán bộ trực tiếp thực hiện Dự án thuộc Phòng Nghiên cứu Điện – Tự động hóa, Phòng Sử dụng năng lượng Tiết kiệm & Hiệu quả. TS. Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng chủ trì buổi làm việc.

Thực hiện dự án sản xuất thực nghiệm đầu đo CO, CH4, theo tiêu chuẩn của Ba Lan, trong thời gian vừa qua, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã hoàn thành thiết kế, chế tạo và đưa vào lắp đặt trong thực tế tại các mỏ than như Dương Huy (18 đầu đo) và Hạ Long (2 đầu đo). 

 Sau khi đưa vào sử dụng (từ tháng 4 năm 2014 đến nay) , các đầu đo trên hoạt động ổn định, chất lượng tương đương thiết bị nhập ngoại.  

Kết quả buổi làm việc là cơ sở để nhóm thực hiện hoàn thiện báo cáo tổng kết Dự án để trình Bộ Công Thương trong thời gian tới./.

Chủ tịch HĐTV Tập Đoàn TKV kiểm tra tiến độ thực hiện Dự án Đầu tư XDCT khai thác hầm lò mỏ than Núi Béo

Ngày 31/03/2015, Chủ tịch HĐTV Tập Đoàn Công nghiệp than Khoáng sản Việt Nam Lê Minh Chuẩn đã có chuyến công tác, kiểm tra tiến độ thực hiện Dự án Đầu tư XDCT khai thác hầm lò mỏ than Núi Béo.

Tham gia đoàn kiểm tra gồm thư ký HĐTV, các ban ĐT, KCM, SXT của Tập đoàn, chủ đầu tư, Công ty Cổ phần than Núi Béo, đơn vị thi công, Công ty xây dựng mỏ hầm lò 1 cùng các nhà thầu và đơn vị tư vấn thiết kế, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ Vinacomin.

Tại buổi làm việc, đại diện chủ đầu tư, ông Vũ Anh Tuấn, Giám đốc Công ty than Núi Béo đã báo cáo kết quả thực hiện Dự án đầu tư xây dựng công trình khai thác hầm lò mỏ than Núi Béo, tính đến thời điểm 30/03/2015 và kế hoạch thực hiện đến khi mỏ đạt công suất thiết kế, năm 2022. Theo đó, tính đến thời điểm hiện tại, giếng đứng chính đã đào đến đáy giếng, khối lượng 391,2m và đang triển khai thi công hầm chất tải; giếng đứng phụ thi công được 406,2m/416,8m, đang tiếp tục thi công đến đáy giếng, đồng thời thi công hầm bơm thoát nước rốn giếng. Dự kiến đến tháng 6/2015 hoàn thiện giếng chính, lò nối hai giếng, tiếp đó sẽ triển khai thi công hệ thống lò xuyên vỉa, sân ga mức -350, -140 bằng tháp tạm. Tháng 10/2015 hoàn thiện thi công giếng phụ, sẽ trang bị khung cốt giếng cũng như hệ thống đường ống, cáp điện… Đối với gói thầu lắp đặt hệ thống thiết bị trục tải giếng đứng đã hoàn thành công tác chấm thầu kỹ thuật và đang triển khai chấm thầu tài chính.

Đại diện chủ đầu tư đồng thời cũng báo cáo với Chủ tịch Tập đoàn những tồn tại trong quá trình triển khai thực hiện Dự án cũng như đề xuất các giải pháp đẩy nhanh tiến độ thi công.

Tiếp đó, đại diện nhà thầu thi công, Công ty Xây dựng mỏ hầm lò 1 đã báo cáo tình hình thi công, năng lực thực hiện hiện có của đơn vị, đồng thời cam kết, nếu được thi công tiếp các đường lò XDCB của Dự án sẽ đảm bảo đến năm 2018 ra than vượt tiến độ khoảng 1 năm so với kế hoạch của Chủ đầu tư. Cũng tại buổi làm việc, Công ty Xây dựng mỏ Hầm lò 1 đã đề xuất với Tập đoàn cho phép được đầu tư thiết bị để nâng cao năng lực thi công giếng đứng của Công ty, cam kết giai đoạn tiếp theo sẽ chủ động thi công, chỉ thuê nhà thầu phụ Ucraina vận hành hệ thống trục tải và thợ tín hiệu.

Về phía cơ quan tư vấn, thiết kế của dự án, Lãnh đạo Viện Khoa học Công nghệ Mỏ cũng đã báo cáo tình hình thực hiện công tác tư vấn lập thiết kế, giám sát tác giả cũng như hỗ trợ chủ đầu tư trong tổ chuyên gia chấm thầu gói thầu thiết bị trục tải.

Sau khi lắng nghe ý kiến các đơn vị và đại diện các ban của Tập đoàn tham dự, Chủ tịch Tập đoàn Lê Minh Chuẩn đã chỉ đạo: 1) Đẩy nhanh tiến độ thực hiện gói thầu thiết bị trục tải theo đúng qui định pháp luật; 2) Công ty than Núi Béo phối hợp với Công ty Xây dựng mỏ Hầm lò 1, trong quá trình xây dựng mỏ cần đào tạo cán bộ, công nhân chuyên ngành khai thác hầm lò, đặc biệt là đội ngũ cán bộ phòng ban kỹ thuật và thi công trực tiếp, trước mắt là hệ thống cán bộ khung, phòng ban kỹ thuật, Quản đốc, phó Quản đốc, Tổ trưởng công trường… cũng như bộ phận cơ điện, phải đòi hỏi lành nghề, có trình độ cao do công nghệ ngày càng hiện đại; 3) Việc đầu tư thiết bị để nâng cao năng lực của Công ty Xây dựng mỏ Hầm lò 1 cần dựa trên hiệu quả của công việc, trên cơ sở có đủ diện để thực hiện thi công, nâng cao công tác quyết toán giá trị thực hiện thi công; 4) Lập định mức đơn giá thi công giếng đứng, áp dụng cho toàn ngành than./.

Viện KHCN Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty Deswik (Australia)

Ngày 24.3.2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty Deswik (Australia) về thiết kế hệ thống phần mềm sử dụng trong khai thác than – khoáng sản.

     Tham dự buổi làm việc, về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin có ông Lưu Văn Thực, ông Đào Hồng Quảng, Phó Viện trưởng và đại diện một số phòng liên quan. Về phía Công ty Deswik (Australia) có ông Nei Tyson, Giám đốc kinh doanh và bà Kiều Thị Nam Phương, Giám đốc phát triển thương mại cấp cao của Uỷ Ban thương mại (Australia).

Tại buổi làm việc, ông Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng đã giới thiệu về Viện và điều kiện địa chất – kỹ thuật mỏ của khoáng sàng than tại Việt Nam cũng như các phần mềm đang được sử dụng trong lĩnh vực khai thác khoáng sản trong thời gian qua.

Về phía mình, ông Nei Tyson, Giám đốc kinh doanh đã giới thiệu về Công ty Deswik và phần mềm do Công ty thiết kế. Phần mềm Deswik là một hệ thống điều khiển giám sát và thu thập dữ liệu nhằm hỗ trợ con người trong quá trình giám sát và điều khiển từ xa ở cấp cao hơn hệ điều khiển tự động thông thường, có khả năng thu thập, lưu giữ và hiển thị các tham số theo dõi trữ lượng than ở các mỏ khai thác sâu, mô phỏng dưới dạng 3D, nhằm kịp thời phát hiện và cảnh báo những hiện tượng bất thường trong quá trình điều hành và sản xuất. Theo đó, so với các hệ thống phần mềm đang được sử dụng trong các đơn vị khai thác khoáng sản của Việt Nam hiện nay, phần mềm Deswik có những ưu điểm đó là cách thức sử dụng linh hoạt, đơn giản, đặc biệt có khả năng tích hợp với tất cả các phần mềm đang sử dụng hiện nay.

Kết quả buổi làm việc là cơ sở cho việc hợp tác giữa hai bên trong thời gian tới./

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ làm việc với Công ty than Quang Hanh về “Tăng năng suất, giảm giá thành”

Ngày 17 tháng 3 năm 2015, Công ty than Quang Hanh – TKV đã có buổi làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, về việc phối hợp triển khai nghiên cứu các giải pháp nhằm tăng năng suất lao động, giảm giá thành than của công ty than Quang Hanh.

Tham dự buổi làm việc, về phía Công ty than Quang Hanh có ông Nguyễn Công Chính, Phó Giám đốc, cùng một số trưởng, phó phòng và cán bộ có liên quan. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, có TS. Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng, cùng  các trưởng phòng và cán bộ có liên quan của các phòng: KTDA, Hầm lò, Thạn sạch, Xây dựng công trình ngầm, Địa cơ mỏ, Điện – Tự động hóa mỏ, Sử dụng Năng lượng tiết kiệm & hiệu quả, …

Mở đầu buổi họp, Phó Viện trưởng, TS. Lưu Văn Thực phát biểu về mục tiêu, ý nghĩa của đề tài “ Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm tăng năng suất lao động, giảm giá thành than trong tập đoàn TKV” và khả năng ứng dụng của đề tài cho các đơn vị sản xuất than của Tập đoàn TKV, trong đó có Công ty than Quang Hanh.

Tiếp đó, Phó Giám đốc Công ty than Quang hanh, ông Nguyễn Công Chính đã nêu ra tình tình chung, thuận lợi và khó khăn của Công ty. Theo đó, với đặc điểm là một đơn vị có tổ chức khai trường rộng và phân tán, điều kiện địa chất khó khăn, vỉa mỏng, từ đó, Công ty là một trong những đơn vị trong tập đoàn có giá thành khai thác than cao. Vì vậy, việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm tăng năng suất và giảm giá thành than đang là những trăn trở hàng ngày của lãnh đạo Công ty.

Từ những định hướng đó, trong cuộc họp đã có nhiều ý kiến đóng góp, tham luận, xoay quanh các vấn đề về kinh tế, quản trị doanh nghiệp, cũng như các giải pháp kỹ thuật áp dụng trong khai thác than hầm lò, sàng tuyển, điện tự động, điều khiển tập trung, …

Kết thúc buổi họp 2 bên đã thống nhất, trong thời gian tới, Công ty than Quang Hanh sẽ  tạo điều kiện để Viện Khoa học Công nghệ Mỏ tiến hành khảo sát, thu thập số liệu thực tế, trước tiên để phục vụ hoàn thiện Đề tài Tăng năng suất, giảm giá thành của Tập đoàn TKV, mà Viện Khoa học Công nghệ Mỏ là đơn vị chủ trì thực hiện, đồng thời, tạo cơ sở để hai bên phối hợp nghiên cứu chuyên sâu các giải pháp áp dụng cho điều kiện thực tế tại Công ty than Quang Hanh./.

Lãnh đạo Tập đoàn TKV làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Ngày 17/3/2015, Lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, ông Vũ Thành Lâm Thành viên HĐTV, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Tổng Giám đốc, ông Nguyễn Văn Sỹ, thư ký HĐTV cùng đại diện ban KCL làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin về kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ năm 2014 và kế hoạch triển khai nhiệm vụ năm 2015.

Về phía Viện Khoa học công nghệ mỏ – Vinacomin có Ban lãnh đạo Viện, TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng, các Phó viện trưởng ThS. Hoàng Minh Hùng, TS. Trương Đức Dư, TS. Đào Hồng Quảng, cùng một số trưởng, phó phòng chuyên môn nghiệp vụ.

Tại buổi làm việc, TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng đã báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2014 và kế hoạch triển khai nhiệm vụ năm 2015.

Theo đó, năm 2014, tổng doanh thu của Viện đạt 316 tỷ đồng, trong đó doanh thu từ hoạt động chuyển giao công nghệ và các dịch vụ khoa học kỹ thuật là 245,34 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 76,69%, doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh đạt 73,1 tỷ đồng, chiếm 23,31%.

Trong năm 2015, Viện tiếp tục triển khai thực hiện các đề tài, nhiệm vụ KHCN các cấp, chuyển giao công nghệ, dịch vụ kỹ thuật và sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực công nghệ khai thác hầm lò, lộ thiên, an toàn mỏ, tuyển chế biến khoáng sản, địa cơ mỏ, điện tự động hoá, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, hiệu chỉnh thiết bị điện,…. Đối với công tác xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ, Viện tiếp tục hoàn thiện bổ sung trang thiết bị phòng thí nghiệm, phương án cải tạo văn phòng Viện tại Phan Đình Giót,…Tiếp đó, TS. Trần Tú Ba cũng đã báo cáo tình hình thực hiện các dự án đầu tư của Viện, các dự án đầu tư do Viện góp vốn, tình hình thực hiện các Nghị quyết của hội đồng thành viên Tập đoàn trong thời gian qua.

Sau khi nghe báo cáo của Viện và ý kiến của các thành viên, ông Vũ Thành Lâm, thành viên HĐTV đã nhấn mạnh đến vai trò của KHCN đối với sự phát triển của ngành than, đồng thời chỉ đạo Viện tiếp tục tập trung thực hiện các công trình, dự án khoa học công nghệ năm 2015 để xây dựng Viện phát triển ổn định, đứng vững trong cơ chế thị trường, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy về khoa học công nghệ cho các đơn vị sản xuất trong Tập đoàn./.

Viện KHCN Mỏ – Vinacomin làm việc với Công ty than Hồng Thái – TK

Ngày 6.3.2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Công ty than Hồng Thái – TKV về việc nghiên cứu, đánh giá mức độ tự cháy của than vỉa 10 mức +30/+200 khu Tràng Khê II và đề xuất phương án công nghệ khai thác phù hợp.

 

   Tham dự buổi làm việc, về phía Công ty than Hồng Thái – TKV có ông Lê Hồng Sơn, Giám đốc và các cán bộ liên quan. Về phía Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, có ông Đào Hồng Quảng, phó Viện trưởng và các cán bộ có liên quan.

Sau khi cùng nghiên cứu tài liệu và  trao đổi, hai bên thống nhất một số nội dung sau:

1) Viện Khoa học Công nghệ Mỏ phối hợp với đối tác nước ngoài tiến hành nghiên cứu xác định tính tự cháy của than vỉa 10 phạm vi mức +30/+20 khu Tràng Khê II. Để triển khai thực hiện, Viện KHCN Mỏ lập đề cương – dự toán công việc gửi Công ty than Hồng Thái phê duyệt làm cơ sở triển khai các bước tiếp theo.

2) Trên cơ sở kết quả nghiên cứu xác định tính chất tự cháy than vỉa 10 mức +30/+200 khu Tràng Khê II, Viện KHCN Mỏ nghiên cứu xây dựng phương án khai thác phù hợp.

Hội nghị nghiệm thu đề tài do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ chủ trì thực hiện

Ngày 12/2/2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin tổ chức Hội nghị nghiệm thu cấp cơ sở đề tài: “Nghiên cứu áp dụng mô hình số xác định các thông số dịch chuyển, biến dạng đất đá trong quá trình đào lò và khai thác tại các mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh”.

 

Hội đồng khoa học được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin, số 463/QĐ-VKHCNM, ngày 11 tháng 12 năm 2014, bao gồm 7 thành viên. TS. Trần Tú Ba, Chủ tịch Hội đồng.

Sau một năm thực hiện, đề tài đã tập trung nghiên cứu một số nội dung chính như:

– Nghiên cứu tổng quan biến dạng trong quá trình đào lò và khai thác.

– Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và phương pháp xác định tính chất, nguyên nhân biến dạng, dịch chuyển khối đá xung quanh các đường lò và công trình khai thác tại một số mỏ than hầm lò Việt Nam.

– Xây dựng các mô hình số xác định các thông số dịch chuyển, biến dạng đất đá dịch chuyển khi đào lò và khai thác tại các mỏ than hầm lò Việt Nam từ các kết quả phân mỏ do đào lò và khai thác tại một số mỏ than hầm lò vùng Quảng Ninh.

– Đánh giá mức độ xuất hiện biến dạng, dịch chuyển, xác định tính toán biến dạng, tich mô hình số.

– Phân tích quy luật và dự báo cho điều kiện ảnh hưởng điển hình.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, quá trình biến dạng, dịch chuyển của mô hình tương đối phù hợp với quy luật theo tính toán lý thuyết và các phương pháp khác về hình dạng sụt lún, góc sụt lún và mức độ sụt lún, các thông số lún phụ thuộc nhiều vào điều kiện địa chất khối đá như: độ bền nén, độ bền kéo, gốc ma sát, lực dính lớp, trọng lượng thể tích đất đá, chiều day phân lớp, góc dốc vỉa than, đất đá và các yếu tố khác như kích thước đường lò, vung khai thác, phương pháp đào lò, phương pháp khai thác, phương pháp chèn lò, phá hoả,…

Chiều sâu đặt đường lò, lò chợ cũng quyết định đến mức độ biến dạng, dạng dịch chuyển. Do quá trình dịch chuyển, biến dạng có thể xảy ra theo nhiều cơ chế theo góc độ phân tích lý thuyết, sự sập đổ có thể xảy ra khi hình thành vòm cân bằng tự nhiên hoặc do quá trình chèn lấp khoảng trống do đá (bị sập đổ) có tính nở rời tạo vùng chèn lấp kín sập đổ hoặc quá trình di dịch khoảng trống lên trên gặp điều kiện đất đá cứng vững ổn định tạo đầm chịu lực và do quá trình sập đổ làm giảm khẩu độ dầm dẫn đến làm ngừng quá trình dịch chuyển, biến dạng khối đá phía trên công trình.

Hội đồng khoa học đã ghi nhận những kết quả đã thực hiện đề tài. Về khối lượng công việc, đã hoàn thành, về nội dung, đúng theo đề cương được duyệt, thời gian thực hiện đảm bảo và thống nhất nghiệm thu. Tuy nhiên, trên cơ sở các ý kiến đóng góp của các thành viên trong Hội đồng khoa học, nhóm thực hiện cần hoàn thiện Báo cáo tổng kết để trình duyệt, nghiệm thu cấp Bộ Công Thương./.

Lãnh đạo TKV làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ về việc thành lập Trung tâm nghiên cứu Kinh tế mỏ

Ngày 5.2.2015, tại Trụ sở Tập đoàn TKV- 226 Lê Duẩn, Ông Nguyễn Văn Biên Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn đã có buổi làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin về phương án “Tăng cường công tác nghiên cứu kinh tế, công nghệ quản lý, xây dựng định mức, đơn giá trong sản xuất, xây dựng ngành công nghiệp mỏ của Tập đoàn”.

 

Tại buổi làm việc, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã trình bày toàn bộ nội dung Phương án tăng cường công tác nghiên cứu kinh tế của Viện đang hoạt động, thành Trung tâm nghiên cứu kinh tế mỏ. Theo đó, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế mỏ sẽ đáp ứng nhu cầu về tăng cường quản lý kinh tế của Tập đoàn; chủ động giải quyết các vướng mắc trong quản lý của Tập đoàn; đáp ứng nhu cầu về nghiên cứu kinh tế của Tập đoàn; tạo điều kiện cho Tập đoàn triển khai các biện pháp quản lý tiên tiến; thu hút sự phục vụ, đóng góp của các chuyên gia kinh tế cho ngành.

Phương án thành lập Trung tâm nghiên cứu Kinh tế mỏ đã nhận được sự đồng thuận của Lãnh đạo Tập đoàn. Kết thúc buổi làm việc, Phó Tổng giám đốc Nguyên Văn Biên kết luận:

– Với việc tăng cường lực lượng và mô hình chuyên môn hóa củaôTrung tâm kinh tế Mỏ, sẽ chủ động thực hiện tốt các nhiệm vụ về nghiên cứu kinh tế, quản lý doanh nghiệp, tư vấn kinh tế dự án đầu tư của Tập đoàn TKV trong giai đoạn mới hiện nay

– Viện KHCN mỏ khẩn chương chuẩn bị đề án thành lập trung tâm kinh tế để trình Tập đoàn xem xét phê duyệt.

Kết quả buổi làm việc là cơ sở cho việc triển khai các bước tiếp theo trong việc thành lập Trung tâm nghiên cứu Kinh tế mỏ./.

Phòng TNHC điện VILAS 534 thực hiện đánh giá lại sau 3 năm vận hành

Trong 2 ngày, 27 và 28/1/2015, tại Khu thực nghiệm Uông Bí, Quảng Ninh, Văn phòng Công nhận chất lượng (BOA), thuộc Bộ Khoa học Công nghệ, đã thực hiện đánh giá lại và đánh giá mở rộng phòng thí nghiệm VILAS 534, do Công ty CP Phát triển Công nghệ và Thiết bị mỏ quản lý, tổ chức vận hành, với lĩnh vực thử nghiệm: Điện – Điện tử.

 

Trong 2 ngày, 27 và 28/1/2015, tại Khu thực nghiệm Uông Bí, Quảng Ninh, Văn phòng Công nhận chất lượng (BOA), thuộc Bộ Khoa học Công nghệ, đã thực hiện đánh giá lại và đánh giá mở rộng phòng thí nghiệm VILAS 534, do Công ty CP Phát triển Công nghệ và Thiết bị mỏ quản lý, tổ chức vận hành, với lĩnh vực thử nghiệm: Điện – Điện tử.

Theo quy định chung trong việc quản lý các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc gia – VILAS, hàng năm, Văn phòng Công nhận chất lượng, cơ quan quản lý Nhà nước về các phòng thí nghiệm sẽ thực hiện kiểm tra, đánh giá các phòng thí nghiệm VILAS và định kỳ 3 năm 1 lần sẽ thực hiện đánh giá lại các phòng thí nghiệm này.

 Đối với phòng thí nghiệm VILAS 534, đây là lần đánh giá lại đầu tiên sau 3 năm vận hành. Đợt này, cùng với việc đánh giá lại phòng thí nghiệm, với 19 phép thử đã được công nhận, đồng thời, theo đề nghị của Công ty Cổ phần Phát triển Công nghệ và thiết bị Mỏ, đoàn đã thực hiện đánh giá mở rộng phòng thí nghiệm, với 19 phép thử đăng ký mới.

Trong 2 ngày, Đoàn đã thực hiện các nội dung kiểm tra bao gồm:

– Kiểm tra hệ thống chung (hồ sơ, tài liệu, phương pháp lưu trữ,…)

– Kiểm tra thao tác thực tế các phép thử: máy biến áp điện lực (đo điện trở cách điện, kiểm tra tỷ số biến các cuộn dây ở tất cả các nấc phân thế và tổ đấu dây, đô điện trở một chiều của các cuôn dây ở tất cả các nấc phân thế,…), cáp điện lực điện áp danh định đến 30kV (đo điện trở cáchh điện trước và sau thử cao áp, thử nghiệm điện áp tăng cao tần số 50Hz, thử cao áp một chiều và đo dòng rò DC), máy cắt điện cao áp (đo điện trở tiếp xúc các tiếp điểm chính bằng dòng điện một chiều, thử nghiệm điện áp tăng cao tần số 50Hz), chống sét van (đo điện trở cách điện, đô dòng điện dò, thử điện áp phóng tần số công nghiệp, chống sét cấp điện áp £ 35kV), hệ thống tiếp đị(đo điện trở tiếp địa), tụ điện (đo điện trở cách điện, đo điện dung C, thử chịu điến áp xoay chiều 50Hz), máy biến điện áp(đo điện trở cách điện, đo tỷ số biến áp, đo điện trở một chiều cuộn dây), máy biến dòng điện (đo điện trở cách điện, đo tỷ số biến dòng điện), Thiết bị đóng cắt và điều khiển hạ áp đến 1000V (kiểm tra các đặc tính tác động quá tải), Rơle trung gian, tín hiệu (đo điện trở cách điện, kiểm tra điện áp tác động, điện áp trở về), rơle so bảo vệ kỹ thuật số,

Nghiệm thu cấp cơ sở đề tài do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin chủ trì thực hiện

Ngày 27.1.2015, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu cấp cơ sở đề tài :“ Nghiên cứu đề xuất công nghệ sàng tuyển than hợp lý cho một số mỏ nhỏ ngoài vùng Quảng Ninh”.

Đề tài thuộc kế hoạch KHCN năm 2014 của Bộ Công Thương giao Viện Khoa học Công nghệ Mỏ chủ trì thực hiện.

Hội đồng KHCN được thành lập theo Quyết định số 462/ QĐ- VKHCNM, ngày 11 tháng 12 năm 2014 của Viện, gồm 7 thành viên, TS. Trần Tú Ba, Chủ tịch Hội đồng.

Với mục tiêu nâng cao hệ số thu hồi than sạch, tận thu tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, theo Báo cáo tổng kết, đề tài đã giải quyết các nội dung: 1)Tổng quan về công nghệ tuyển than trên thế giới và ở Việt Nam; 2) Khảo sát, đánh giá hiện trạng công nghệ sàng tuyển, chế biến và tiêu thụ than ở một số mỏ nhỏ ngoài vùng Quảng Ninh; 3) Nghiên cứu, đánh giá tính chất than nguyên khai cho một số mỏ nhỏ tại các tỉnh phía bắc Việt Nam; 4) Nghiên cứu thử nghiệm tuyển than và lựa chọn công nghệ sàng tuyển phù hợp cho các mỏ nhỏ phía bắc Việt Nam; 5) Lập phương án khả thi xây dựng dây chuyền sàng tuyển than cho một mỏ nhỏ cụ thể.

Hội đồng khoa học cấp cơ sở thống nhất nghiệm thu kết quả thực hiện đề tài. Tuy nhiên, nhóm thực hiện cần hoàn thiện báo cáo tổng kết của đề tài trước khi trình duyệt ở cấp Bộ Công Thương.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ: họp rà soát, thống nhất nội dung các đề tài, nhiệm vụ KHCN đề xuất Tập đoàn năm 2015

Ngày 15 tháng 1 năm 2015, dưới sự chủ trì của TS. Trần Tú Ba, Viện trưởng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ tổ chức họp rà soát, thống nhất nội dung các đề tài, nhiệm vụ KHCN đề xuất Tập đoàn năm 2014-2015.

Tham dự cuộc họp có các Phó Viện trưởng, các trưởng phòng chuyên môn trong Viện.

Để chuẩn bị chương trình nghiên cứu năm 2015 và những năm tiếp theo, căn cứ yêu cầu thực tế, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ dự kiến đề xuất đề tài, dự án KHCN cấp tập đoàn. Các đề tài đề xuất tập trung vào giải quyết hoàn thiện công nghệ trong các lĩnh vực công nghệ khai thác hầm lò, lộ thiên, xây dựng công trình ngầm, an toàn mỏ,… cùng với các đề tài, dự án KHCN cấp Nhà nước, cấp Bộ.

Cuộc học đã tập trung rà soát, thống nhất nội dung các đề tài, nhiệm vụ KHCN dự kiến đề xuất. Các thành viên tham dự đã xem xét cụ thể từng đề tài, nhiệm vụ KHCN, từ tên đề tài, nhiệm vụ, mục tiêu, nội dung nghiên cứu chính, … từ đó, thống nhất nội dung nghiên cứu của từng đề tài, nhiệm vụ KHCN.

Kết quả cuộc họp là cơ sở cho các phòng chuyên môn, các chủ nhiệm đề tài hoàn thiện đề cương nghiên cứu, trình Tập đoàn./.

Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị nghiệm thu nhiệm vụ do Viện Khoa học Công nghệ Mỏ thực hiện

Ngày 25.12.2014, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị nghiệm thu nhiệm vụ: “Triển khai áp dụng thí điểm hệ thống quản lý an toàn, quản lý rủi ro và kế hoạch ứng cứu khẩn cấp trong doanh nghiệp khai thác than hầm lò theo quy định tại thông tư số 43/2012/TT-BCT của Bộ Công thương”. Đây là một trong những nhiệm vụ thuộc Chương trình Quốc gia về an toàn lao động, vệ sinh lao động giai đoạn 2011-2015.

 

Hội đồng khoa học cấp Bộ Công Thương được thành lập theo Quyết định số 8585/QĐ-BCT, ngày 26/9/2014, gồm 9 thành viên, ông Cao Anh Dũng, Phó Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp làm Chủ tịch.

Như tin đã đưa, ngày 2/12/2014, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin đã tổ chức Hội nghị cấp cơ sở nghiệm thu nhiệm vụ trên. Qua đó cho thấy, Báo cáo tổng kết nhiệm vụ đã phản ánh đúng, đủ kết quả thực hiện nhiệm vụ, các nội dung trong nhiệm vụ bám sát với đề cương đã được phê duyệt. Đối với một số lỗi còn tồn tại trong báo cáo tổng kết nhiệm vụ đã được Hội đồng nghiệm thu cấp cơ sở đóng góp chỉnh sửa hoàn thiện.

Với mục tiêu đảm bảo an toàn trong sản xuất công nghiệp nói chung và nói riêng trong khai thác than  hầm lò, trong điều kiện mức khai thác ngày càng xuống sâu, cường độ sản xuất lớn, cùng với hệ thống các văn bản pháp lý về quản lý an toàn hiện hành, như Bộ Luật Lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động, Quy chuẩn, Tiêu chuẩn Việt Nam về AT-VSLĐ, … năm 2010, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 43/2010/TT-BCT quy định công tác quản lý an toàn trong ngành Công Thương. Mặc dù với hệ thống quản lý an toàn như vậy, tuy nhiên, tình trạng mất an toàn vẫn xảy ra phức tạp, khó lường. Từ đó, việc thực hiện nhiệm vụ nói trên nhằm nâng cao hiệu lực của hệ thống, đảm bảo an toàn trong khai thác than hầm lò của Việt Nam.

Tại Hội nghị, Hội đồng nghiệm thu đã đánh giá, báo cáo nhiệm vụ đã phản ánh đầy đủ kết quả thực hiện nhiệm vụ, hoàn toàn bám sát đề cương đã được phê duyệt, bao gồm: Đánh giá hiện trạng công tác quản lý an toàn, quản lý rủi ro và kế hoạch ứng cứu khẩn cấp tại các đơn vị khai thác than hầm lò; Xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý rủi ro; Tổng quan kinh nghiệm nước ngoài về các hệ thống quản lý an toàn và từ đó thực hiện nội dung chính: quản lý rủi ro và kế hoạch ứng cứu khẩn cấp cho các đơn vị khai thác than hầm lò Việt Nam.

Hoàn thành việc xây dựng hệ thống quản lý an toàn; đánh giá rủi ro các môi nguy hiểm tại một lò chợ dài; xây dựng kế hoạch ứng cứu khẩn cấp đối với các tình huống sự cố; tổ chức các lớp đào tạo kỹ năng đánh giá rủi ro cho các cán bộ, công nhân tại Công ty than Hồng Thái – TKV

Kết quả, báo cáo tổng kết nhiệm vụ đã được Hội đồng KHCN Bộ Công Thương đánh giá cao, những nội dung công tác quản lý an toàn, quản lý rủi ro, ứng cứu khẩn cấp được xây dựng hoàn toàn có thể áp dụng vào thực tế, nâng cao hiệu lực quản lý an toàn trong các mỏ than hầm lò Việt Nam./.