Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin làm việc với Tập đoàn Máy mỏ Famur (Ba Lan)

Ngày 26.3.2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Tập đoàn Máy mỏ Famur (Ba Lan) nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp thiết bị mỏ.

 

     Ngày 26.3.2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã có buổi làm việc với Tập đoàn Máy mỏ Famur (Ba Lan) nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp thiết bị mỏ.

    Famur là Tập đoàn lớn tại Ba Lan, hoạt động trên nhiều lĩnh vực như thiết bị mỏ, năng lượng, bảo vệ môi trường và các lĩnh vực công nghệ khác. Tập đoàn Famur sở hữu 16 Công ty, trong đó có 6 nhà máy lớn chuyên sản xuất thiết bị mỏ. Hiện nay, Tập đoàn đang chiếm lĩnh 50% thị trường thiết bị mỏ tại Ba Lan.  

Tại buổi làm việc, ông Ireneusz Tomecki, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Famur đề xuất hợp tác với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin trong lĩnh vực cơ giới hóa khai thác mỏ. Hai bên đã thảo luận một số nội dung liên quan đến công tác nghiên cứu và khả năng hợp tác trong lĩnh vực cơ giới hóa đào lò đá và cơ giới hóa khai thác vỉa dày, góc dốc từ 300 ¸ 35tại Việt Nam. Trong buổi làm việc, TS. Nguyễn Anh Tuấn – Viện trưởng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ -Vinacomin đã bày tỏ sự quan tâm đến các thiết bị và công nghệ của Tập đoàn Famur, cũng như công tác bảo dưỡng, bảo trì đồng bộ thiết bị trong quá trình hoạt động./.

Công ty TNHH MTV than Quang Hanh với công tác đổi mới công nghệ khai thác

Từ chỗ là đơn vị tận thu than và chuyển đổi mô hình từ đơn vị thăm dò khoáng sản, trải qua 10 năm, đến nay, sản lượng khai thác của Công ty đã đạt 1,3 triệu tấn/năm và sẽ liên tục tăng công suất mỏ đạt 2,0 – 2,5 triệu tấn/năm vào những năm tiếp theo.

Từ chỗ là đơn vị tận thu than và chuyển đổi mô hình từ đơn vị thăm dò khoáng sản, trải qua 10 năm, đến nay, sản lượng khai thác của Công ty đã đạt 1,3 triệu tấn/năm và sẽ liên tục tăng công suất mỏ đạt 2,0 – 2,5 triệu tấn/năm vào những năm tiếp theo.

Trao đổi với chúng tôi, Thạc sỹ Bùi Đình Thanh, Giám đốc Công ty cho biết, hiện tại, để khai thác các khu vực vỉa mỏng, dốc thoải đến nghiêng, Công ty Than Quang Hanh đang áp dụng sơ đồ hệ thống khai thác cột dài theo phương, khấu than bằng khoan nổ mìn, chống giữ lò chợ bằng vì chống cột thủy lực đơn, xà khớp. Sản lượng than khai thác và năng suất lao động của các lò chợ này còn thấp, bình quân đạt từ 60.000 ¸ 80.000 tấn/năm và từ 2,2 ¸ 3,5 tấn/công. Ngoài ra, công nghệ khai thác này còn một số hạn chế khác như: quá trình khai thác được thực hiện hoàn toàn bằng thủ công ở hầu hết các khâu công nghệ; cần nhiều người làm việc trong gương khai thác; khó khăn trong việc nâng cao công suất khai thác lò chợ; điều kiện lao động công nhân còn hạn chế, không gian làm việc chật hẹp, đặc biệt khi chiều dày vỉa giảm đến 1,4 ¸ 1,5 m, việc thực hiện các thao tác trong quy trình công nghệ sẽ rất khó khăn làm giảm năng suất lao động và chất lượng than khai thác.

Theo kế hoạch phát triển của Công ty, sản lượng than khai thác hầm lò sẽ tăng từ 1,3 lên 2,0 triệu tấn vào năm 2015 với mức tăng bình quân khoảng 200.000 ¸ 250.000 tấn/năm. Để đạt sản lượng than khai thác theo kế hoạch, ngoài phần trữ lượng các khu vực vỉa dày trung bình đến dày, Công ty sẽ phải huy động phần trữ lượng tại khu vực vỉa mỏng vào khai thác (chủ yếu là các khu vực vỉa mỏng, dốc thoải đến nghiêng). Với công nghệ khai thác vỉa mỏng, dốc thoải đến nghiêng hiện tại đang áp dụng tại Công ty, việc tăng sản lượng khai thác chỉ có thể thực hiện được bằng cách mở thêm diện khai thác mới và tăng số công nhân lao động. Đây là vấn đề hết sức khó khăn trong thời điểm hiện nay với các mỏ hầm lò thuộc Vinacomin nói chung và Công ty Than Quang Hanh nói riêng.

Khoáng sàng than Ngã Hai do Công ty Than Quang Hanh quản lý và khai thác bao gồm 35 vỉa than, trong đó 15 vỉa than có giá trị công nghiệp được huy động vào khai thác là vỉa 17, 16, 15, 14, 13, 12, 11, 10, 7, 6, 6A, 5, 4, 4B và vỉa 3. Trong những năm gần đây, Công ty đã tiến hành khai thác phần trữ lượng than từ mức -50 ¸ LV, đồng thời đào các đường lò khai thông chuẩn bị cho phần trữ lượng dưới mức -50, theo “Thiết kế kỹ thuật khai thác xuống sâu dưới mức -50 mỏ than Ngã Hai, Công ty Than Quang Hanh” do Công ty CP Tư vấn Đầu tư Mỏ và Công nghiệp lập năm 2009. Đánh giá sơ bộ cho thấy, trữ lượng các khu vực vỉa mỏng (0,8 ¸ 2,0 m) chiếm khoảng 43% trong tổng số 106,4 triệu tấn trữ lượng địa chất huy động vào khai thác theo thiết kế. Trong đó, phần trữ lượng các khu vực vỉa mỏng, dốc thoải đến nghiêng chiếm tỷ lệ tương đối lớn (khoảng 68%) trong tổng trữ lượng các khu vực vỉa mỏng huy động vào khai thác.

Từ những khó khăn trên, Công ty có chủ trương đổi mới công nghệ khai thác vỉa mỏng thoải đến nghiêng và đề nghị Viện Khoa học Công nghệ Mỏ cùng phối hợp thực hiện. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá đặc điểm trữ lượng, hiện trạng công nghệ khai thác đang áp dụng tại mỏ, nhu cầu tăng sản lượng và những khó khăn khi thực hiện kế hoạch đó, Công ty phối hợp cùng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đưa ra phương án đổi mới công nghệ khai thác vỉa mỏng, dốc thoải đến nghiêng tại Công ty Than Quang Hanh theo hướng cơ giới hóa, hiện đại hóa. Theo tính toán, so với các công nghệ hiện đang áp dụng tại Công ty, công nghệ cơ giới hóa khai thác đồng bộ bằng máy khấu và dàn chống tự hành sẽ cho phép nâng cao sản lượng khai thác từ 2,0 ¸ 2,5 lần, năng suất lao động tăng 3 ¸ 5 lần.

Nguồn: Vinacomin

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ làm việc với Công ty Osaka Gas (Nhật Bản)

Ngày 11.3.2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã có buổi làm việc với Công ty Osaka Gas (Nhật Bản) với chủ đề thu hồi và sử dụng khí mêtan của các mỏ than tại Việt Nam.

 

Ngày 11.3.2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã có buổi làm việc với Công ty Osaka Gas (Nhật Bản) với chủ đề thu hồi và sử dụng khí mêtan của các mỏ than tại Việt Nam.

Osaka Gas là Công ty lớn thứ hai tại Nhật Bản, có nhiều năm kinh nghiệm trong việc sản xuất và cung cấp gas và khí đốt phục vụ sinh hoạt và công nghiệp. Hiện nay, Công ty đang sở hữu công nghệ CMM ( Coal Mine Methane – CMM) để thu hồi và làm giàu khí mỏ than.

Tại buổi làm việc, Công ty Osaka Gas đã trình bày tổng quan về công nghệ CMM và những kết quả áp dụng công nghệ này trong thực tế tại tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Qua buổi làm việc, Công ty Osaka Gas đã đề xuất hợp tác với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin trong lĩnh vực nghiên cứu triển khai áp dụng công nghệ CMM để thu hồi và sử dụng khí mêtan tại các mỏ than Việt Nam. 

Kết thúc buổi làm việc, TS. Nguyễn Anh Tuấn – Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin đã bày tỏ sự quan tâm đến công nghệ CMM trong việc sử dụng khí CMM thu hồi được cũng như hiệu quả của công nghệ thu hồi trong việc áp dụng tại Việt Nam, góp phần  giảm thiểu ô nhiễm môi trường và giảm phát thải  khí nhà kính./.

Nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở

Ngày 7/1/2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu đề tài "Nghiên cứu đánh giá công nghệ tuyển quặng Bauxit Tân Rai – Lâm Đồng"

 

Ngày 8/1/2013, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu đánh giá công nghệ tuyển quặng Bauxit Tân Rai – Lâm Đồng

Cơ quan quản lý: Bộ Công Thương

Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin;

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Văn Minh

Hội đồng KHCN cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 443/ QĐ-QLKH, ngày 21 tháng 12 năm 2012, gồm 7 thành viên.

TS. Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Chủ tịch

TS. Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng – Phó chủ tịch

TS. Nguyễn Hữu Nhân, Trưởng phòng – Phản biện 1

TS. Nguyễn Quốc Thịnh , Trưởng phòng – Phản biện 2

TS. Trần Tú Ba, Phó Viện trưởng – Ủy viên

TS. Đào Hồng Quảng, Trưởng phòng – .Ủy Viên

TS. Phan Xuân Bình, Trưởng phòng – Ủy viên thư ký.

Nhà máy tuyển quặng bauxit Tân Rai là nhà máy tuyển quặng đầu tiên có công suất lớn hơn 4 triệu tấn/năm do Việt Nam tự thiết kế cung cấp thiết bị lắp đặt đào tạo vận hành chuyển giao công nghệ. Đến nay nhà máy tuyển quặng bauxit Tân Rai đã sản xuất và cung cấp cho nhà máy alumin được hơn 200.000 tấn quặng tinh. Sản phẩm quặng đạt yêu cầu về chất lượng với hàm lượng oxit nhôm >48% (Al2O3); đioxit silic <2% (SiO2); oxit sắt  <19% (Fe2O3). Tuy nhiên, hệ thống pha cấp keo tụ bị quá tải, gây khó khăn cho sản xuất và ô nhiễm môi trường. Sau khi khảo sát đánh giá chất lượng quặng bauxit nguyên khai và công nghệ nhà máy tuyển, nhóm thực hiện đề tài đề xuất các giải pháp kỹ thuật trong khai thác; giải pháp kỹ thuật trong công nghệ nhà máy tuyển, đồng thời, đưa ra một số kiến nghị với Bộ Công Thương và Tập đoàn như nghiên cứu lựa chọn chất trợ lắng phù hợp với điều kiện thổ những vùng mỏ quặng bauxit Tân Rai; Nghiên cứu các giải pháp công nghệ nâng cao hiệu quả sản xuất nhà máy tuyển; Nghiên cứu xây dựng bản đồ chất lượng quặng vùng mỏ bauxit Tân Rai; Nghiên cứu hoàn thiện thiết bị nghiền búa phù hợp cho nghiền quặng bauxit góp phần nâng cao hiệu quả công nghệ khai thác, công nghệ tuyển rửa, tận thu tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được các thành viên của Hội đồng thông qua cấp cơ sở và đóng góp ý kiến để chỉnh sửa hoàn chỉnh đưa báo cáo tại Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ Công Thương .

Hội thảo về hệ thống cơ giới hóa vận chuyển người, vật tư và thiết bị bằng đầu tầu điêzen …

Được sự nhất trí của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, ngày 18 tháng 12 năm 2012, tại Khách sạn Heritage, số 88 Hạ Long – Bãi Cháy – Quảng Ninh đã diễn ra &quot;Hội thảo về hệ thống cơ giới hóa vận chuyển người, vật tư và thiết bị bằng đầu tầu điêzen kết hợp monoray trong khai thác hầm lò&quot;.

  Được sự nhất trí của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, ngày 18 tháng 12 năm 2012, tại Khách sạn Heritage, số 88 Hạ Long – Bãi Cháy – Quảng Ninh đã diễn ra “Hội thảo về hệ thống cơ giới hóa vận chuyển người, vật tư và thiết bị bằng đầu tầu điêzen kết hợp monoray trong khai thác hầm lò”. 

Tham gia Hội thảo có ông Nguyễn Chiến Thắng – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, đại diện các ban chuyên môn của Tập đoàn (Ban Điện Lực – Cơ khí; Ban Cơ điện – Vận tải; Ban Khoa học công nghệ và chiến lược; Ban  Xây dựng mỏ; Ban Kỹ thuật công nghệ mỏ; Ban An toàn), đại diện lãnh đạo của các đơn vị tư vấn thiết kế (Viện Khoa học Công nghệ Mỏ; Viện Cơ khí Năng lượng và Mỏ; Công ty CP Tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp) cùng đại diện lãnh đạo của nhiều đơn vị khai thác than hầm lò, các đơn vị sản xuất cơ khí thuộc Tập đoàn Công nghiệp than khoáng sản Việt Nam và đại diện Nhà máy FERRIT (Cộng hòa Séc), ông Mazour Rostislav – Giám đốc Thương mại.

Tại buổi Hội thảo, đại diện Nhà máy FERRIT đã giới thiệu hệ thống cơ giới hóa vận chuyển người, vật tư và thiết bị bằng đầu tầu điêzen kết hợp monoray trong khai thác hầm lò mà Nhà máy đã cung cấp trên thế giới, đánh giá hiệu quả áp dụng hệ thống này tại Công ty than Hà Lầm và Nam Mẫu. Đồng thời FERRIT đã đề xuất và xây dựng chương trình kế hoạch chuyển giao công nghệ, gia công sản xuất các loại vật tư, thiết bị của hệ thống monoray tại các đơn vị cơ khí trong Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam.

Tiếp theo chương trình, đại diện Công ty TNHH MTV Than Nam Mẫu, Công ty Cổ phần Than Hà Lầm trao đổi về thực tế áp dụng hệ thống cơ giới hóa vận chuyển người, vật tư và thiết bị bằng mônôray kết hợp đầu tàu điêzen tại đơn vị mình.

Trong bài tham luận của mình, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã giới thiệu các hình thức vận chuyển người, vật tư và thiết bị trên thế giới và tại các mỏ khai thác than hầm lò của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam.

Thông qua buổi Hội thảo này, các bên có thể xem xét, lựa chọn phương án vận chuyển người, vật tư, thiết bị hợp lý và khả năng phối hợp với các đối tác nước ngoài để chế tạo trong nước nhằm chủ động trong sản xuất, giảm chi phí đầu tư, đáp ứng yêu cầu sử dụng của các đơn vị khai thác than hầm lò của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam./.

Hội nghị nghiệm thu đề tài khoa học cấp cơ sở

Ngày 17/12/2012, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu cấp cơ sở đề tài:&quot;Nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý điện năng cho các hộ khai thác than hầm lò&quot;.

Ngày 17/12/2012, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu cấp cơ sở đề tài

“Nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý điện năng cho các hộ khai thác than hầm lò”.

Cơ quan quản lý đề tài: Bộ Công Thương

Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin;

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Vũ Thế Nam.

Hội đồng KHCN cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định số 433/QĐ-QLKH, ngày 11/12/2012 của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin, gồm 7 thành viên:

TS. Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Chủ tịch;

TS. Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Phó chủ tịch;

TS. Đào Đắc Tạo, Hội KHCN Mỏ Việt Nam – Phản biện 1;

ThS. Nguyễn Đình Thống, Trưởng phòng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Phản biện 2;

ThS. Lưu Văn Thực, P.Viện trưởng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Ủy viên;

KS. Lê Văn hải, Trưởng phòng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Ủy viên;

TS. Phan Xuân Bình, Trưởng phòng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Ủy viên thư ký

Việc áp dụng các hệ thống quản lý điện năng tập trung đã được các nước trên thế giới áp dụng từ cách đây nhiều năm về trước và được phát triển áp dụng trong tất cả các loại hình công nghiệp. Quản lý năng lượng tập trung mang lại tính ổn định của hệ thống điện cũng như phát hiện xử lý nhanh những sự cố gây gián đoạn trong quá trình sản xuất của các doanh nghiệp.

Ngành than đang bước vào thời kì đầu tư mạnh mẽ cho các chương trình mở rộng sản xuất, cơ giới hoá khai thác than nâng cao sản lượng khai thác và chế biến, đầu tư thêm nhiều thiết bị phục vụ khai thác cũng như cải tạo nâng công suất chế biến than. Như vậy đòi hỏi chất lượng hệ thống cung cấp điện phục vụ các chương trình trên phải đảm bảo về an toàn và tin cậy nhất là đối với các đơn vị sản xuất than hầm lò ngày càng sản xuất xuống sâu. Phần lớn các thiết bị của hệ thống cung cấp điện còn lạc hậu, không đồng bộ (của nhiều hãng khác nhau), việc quản lý điện mang tính thủ công (ghi chép theo dõi bằng tay). Trên thị trường có rất nhiều hãng nổi tiếng có các hệ thống quản lí điện năng tự động, tuy nhiên các hệ thống đó phải là đồng bộ thiết bị của chính hãng đó. Với thực trạng hiện nay của các mỏ than hầm lò việc xây dựng hệ thống quản lý điện năng là hết sức cần thiết để đảm bảo an toàn nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và thiết bị máy móc mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Với mục tiêu: Nghiên cứu xây dựng phần mềm quản lý điện năng cho hộ khai thác than hầm lò, đáp ứng được nhu cầu quản lý điện năng từ cấp phân xưởng tới cấp ban lãnh đạo của một mỏ than khai thác than hầm lò. Nội dung của đề tài gồm:

1, Nghiên cứu phân tích đánh giá các giải pháp quản lý điện năng và đề xuất lựa chọn giải pháp quản lý điện năng cho mỏ than hầm lò.

2. Nghiên cứu đề xuất lựa chọn thiết bị phục vụ cho hệ thống quản lý điện năng phù hợp với môi trường có khí bụi nổ.

3. Nghiên cứu xây dựng phần mềm quản lý điện năng cho một mỏ phù hợp với đặc thù riêng của hộ khai thác than hầm lò vùng Quảng Ninh.

Sau 1 năm triển khai thực hiện, đề tài đã đạt được những mục tiêu cơ bản, gồm: đánh giá khả năng áp dụng hệ thống quản lý điện năng trong các mỏ than hầm lò; Nghiên cứu phân tích đánh giá các giải pháp quản lý điện năng trên thế giới; nghiên cứu lựa chọn thiết bị của hệ thống quản lý điện năng đáp ứng yêu cầu an toàn nổ phù hợp với điều kiện mỏ than hầm lò; nghiên cứu xây dựng phần mềm quản lý điện năng cho một mỏ phù hợp với đặc thù riêng của hộ khai thác than hầm lò vùng Quảng Ninh. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề tài đã lựa chọn Công ty cổ phần than Hà Lầm – Vinacomin để thiết kế áp dụng thử nghiệm và theo dõi đánh giá hoàn thiện hệ thống.

Hội đồng KHCN cấp cơ sở đã nhận xét, đóng góp ý kiến để nhóm thực hiện đề tài chỉnh sửa hoàn chỉnh báo cáo tổng kết để báo cáo tại Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ Công Thương.

 

Hội nghị nghiệm thu đề tài khoa học cấp cơ sở

Ngày 13/12/2012, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu cấp cơ sở đề tài &quot;Nghiên cứu xác định các thông số dịch chuyển, biến dạng đất đá khi khai thác vỉa dày bằng phương pháp hầm lò trên mô hình vật liệu tương đương&quot;.

 

     Ngày 13/12/2012, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu cấp cơ sở đề tài “Nghiên cứu xác định các thông số dịch chuyển, biến dạng đất đá khi khai thác vỉa dày bằng phương pháp hầm lò trên mô hình vật liệu tương đương”.

Cơ quan quản lý đề tài: Bộ Công Thương

Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin;

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Anh Tuấn.

Hội đồng KHCN cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định số 432/QĐ-QLKH, ngày 10/12/2012 của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ-Vinacomin, gồm 7 thành viên:

1. TS. Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Chủ tịch;

2. TS. Trần Tú Ba, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Phản biện 1;

3. TS. Phạm Minh Đức, Hội KHCN Mỏ Việt Nam – Phản biện 2;

4. TS. Lê Văn Công, Trưởng phòng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Ủy viên;

5. ThS. Lê Thanh Phương, Trưởng phòng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Ủy viên;

6. ThS. Đặng Hồng Thắng, Trưởng phòng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Ủy viên;

7. TS. Phan Xuân Bình, Trưởng phòng, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Ủy viên thư ký.

Thực tế khai thác tại vùng Quảng Ninh những năm qua cho thấy, có nhiều hiện tượng các công trình, nhà cửa bị hư hại hoặc phá hủy do ảnh hưởng của khai thác hầm lò, đòi hỏi phải có sự quan tâm, hiểu biết và điều khiển quá trình dịch động, đảm bảo an toàn cho công trình khai thác cũng như các công trình, đối tượng trên bề mặt, đồng thời giảm tổn thất tài nguyên than.

Với mục tiêu: xác định các thông số dịch chuyển, biến dạng đất đá mỏ khi khai thác các vỉa than dày tại một số mỏ than vùng Quảng Ninh bằng mô hình vật liệu tương đương; phân tích, so sánh kết quả quan trắc trên mô hình với các kết quả quan trắc thực tế và tính toán lý thuyết, nhằm xác định các thông số dịch động đặc trưng cho các mỏ than vùng Quảng Ninh, nội dung nghiên cứu của đề tài bao gồm:

1.       Đánh giá tổng quan về dịch chuyển, biến dạng đất đá mỏ do khai thác hầm lò tại vùng Quảng Ninh.

2.       Đánh giá tổng hợp trữ lượng và đặc điểm điều kiện địa chất, phân tích hiện trạng khai thác các vỉa than dày vùng Quảng Ninh.

3.       Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu dịch động đất đá mỏ trên mô hình vật liệu tương đương.

4.       Xây dựng mô hình vật liệu tương đương nghiên cứu, xác định các thông số dịch động đất đá mỏ do khai thác hầm lò các vỉa than dày tại một số mỏ đặc trưng vùng Quảng Ninh. Phân tích kết quả, so sánh với các kết quả quan trắc thực tế nhằm xác lập các thông số đặc trưng.

Sau 1 năm triển khai thực hiện, đề tài đã đạt được những mục tiêu cơ bản, gồm xây dựng 02 mô hình vật liệu tương đương mô phỏng các điều kiện khai thác vỉa dày thoải và dày dốc tại vùng Quảng Ninh. Các kết quả quan trắc, xác định thông số dịch động trên mô hình vật liệu tương đương phù hợp với quy luật dịch chuyển và các kết quả tính toán lý thuyết, cũng như kinh nghiệm quan trắc thực tế tại các khoáng sàng than vùng Quảng Ninh. Trên cơ sở đó, đề tài đã xây dựng thông số dịch động đất đá mỏ đặc trưng cho một số mỏ vùng than Quảng Ninh.

Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được toàn bộ các thành viên của

Lãnh đạo Tập đoàn làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ về chương trình KHCN

 Ngày 13/12/2012, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn, ông Đặng Thanh Hải đã có buổi làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin nhằm đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ năm 2012 và thống nhất chương trình hoạt động khoa học công nghệ trong năm 2013.

Ngày 13/12/2012, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn, ông Đặng Thanh Hải đã có buổi làm việc với Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin nhằm đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ năm 2012 và thống nhất chương trình hoạt động khoa học công nghệ trong năm 2013.

Tại buổi làm việc TS. Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng đã báo cáo kết quả thực hiện các đề tài, nhiệm vụ khoa học công nghệ các cấp trong năm 2012, kế hoạch thực hiện trong năm 2013, đặc biệt là nhiệm vụ tiếp tục triển khai nghiên cứu áp dụng một số sơ đồ công nghệ cơ giới hóa khai thác mỏ hầm lò.

– Về tình hình thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ năm 2012, đến nay cơ bản đã hoàn thành đảm bảo chất lượng và tiến độ các đề tài, nhiệm vụ KHCN các cấp.

– Về kế hoạch thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ trong năm 2013, Viện đã đăng ký hồ sơ tham gia tuyển chọn nhiệm vụ KHCN năm 2013 thuộc “Chương trình KH&CN trọng điểm công nghệ khai khoáng và chế biến khoáng sản” và đã được Hội đồng tư vấn tuyển chọn, gồm 02 đề tài, 02 dự án SXTN cấp Nhà nước và 10 đề tài cấp Bộ Công Thương.

– Về kế hoạch triển khai áp dụng công nghệ cơ giới hóa khai thác hầm lò giai đoạn 2013-2015, trên cơ sở kết quả áp dụng thử nghiệm thử nghiệm cơ giới hóa khai thác tại các mỏ Khe Chàm (vỉa thoải, khai thác 1 lớp), Vàng Danh, Nam Mẫu (vỉa dày thoải, khai thác lớp trụ hạ trần), Mạo Khê, Hồng Thái (vỉa mỏng dốc, khai thác cột dài theo hướng dốc) trong những năm qua, Báo cáo đã tổng hợp kết quả đã đạt được đồng thời phân tích nguyên nhân hạn chế các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật trong việc áp dụng cơ giới hóa khai thác.

Từ những phân tích, đánh giá trên, trên cơ sở kết quả đánh giá điều kiện địa chất, tổng hợp trữ lượng các vỉa than có khả năng áp dụng cơ giới hóa khai thác tại một số khoáng sàng vùng Quảng Ninh, Viện đề xuất nghiên cứu và triển khai áp dụng một số sơ đồ công nghệ cơ giới hóa cơ bản như sau:

1. Sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo phương, khấu toàn bộ chiều dày vỉa, áp dụng khai thác điều kiện vỉa mỏng đến dày trung bình, dốc đến 450;

2. Sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo phương, khấu lớp trụ hạ trần thu hồi than nóc, áp dụng khai thác điều kiện vỉa dày, dốc đến 350;

3. Sơ đồ công nghệ khai thác chia lớp nghiêng, khai thác lớp vách, lớp trụ hạ trần than lớp giữa, áp dụng khai thác điều kiện vỉa dày, dốc đến 350, vách sập đổ trung bình đến khó sập đổ;

4. Sơ đồ công nghệ cơ giới hóa khai thác lò dọc vỉa phân tầng sử dụng máy combai đào lò kết hợp với nổ mìn trong lỗ khoan dài, sử dụng kíp vi sai phi điện để nâng chiều cao phân tầng khai thác, áp dụng khai thác điều kiện vỉa dốc trên 450;

5. Công nghệ khai thác lò dọc vỉa phân tầng kết hợp máy khoan đường kính lớn, áp dụng khai thác điều kiện vỉa dày trung bình, dốc trên 450;

6. Sơ đồ công nghệ cơ giới hóa khai thác chia lớp bằng, áp dụng cho các khu vực vỉa dày trên 10m, dốc trên 450;

7. Sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo hướng dốc, sử dụng tổ hợp dàn chống 2ANSH cho các vỉa mỏng, dốc đứng.

Trong thời gian trước mắt, đề xuất nghiên cứu triển khai áp dụng công nghệ cơ giới hóa khai thác tại một số khu vực có khả năng áp dụng, bao gồm:

– Lò chợ vỉa 9 mức +125/+200, cánh Bắc – Nam Mẫu (vỉa dày 1,7m, dốc 250, dài 500m theo phương), có thể áp dụng năm 2013;

– Lò chợ vỉa 7 mức 0/+50 khu giếng Vàng Danh (vỉa dày 7,8m, dốc 150, dài 400m theo phương), có thể áp dụng năm 2013;

– Lò chợ vỉa 11 khu VII, mức -275/-300 (vỉa dày 11,7m, dốc 160) và lò chợ vỉa 7 khu I (vỉa dày 11,5 m, dốc 170, theo phương dài 1000m) thuộc Công ty than Hà Lầm, thời gian có thể áp dụng tương ứng vào năm 2014 và 2015;

–  Lò chợ vỉa 12 khu Trung tâm (vỉa dày 2,3m, dốc 150, theo phương dài 550 m và lò chợ vỉa 14 mức -50/+38 khu trung tâm (vỉa dày 5,5m, dốc 130, theo phương dài 425m) thuộc Công ty than Dương Huy, có thể áp dụng năm 2014;

– Vỉa 7 mức 0/+50 khu Nam – Ngã Hai, Quang Hanh (vỉa dày 1,6m, dốc 200), có thể áp dụng năm 2013;

– Lò chợ vỉa 6B mức -140/-35, khu Lộ Trí – Thống Nhất (vỉa dày 14,3m, dốc 220, theo phương dài 480m), có thể áp dụng năm 2013.

Bên cạnh đó, báo cáo của Viện cũng đề xuất nhiệm vụ tiếp tục nghiên cứu áp dụng cơ giới hóa đào lò đá, gương hỗn hợp than, đá, cơ giới hóa trong chống neo, bê tong phun nhằm tăng tốc độ và năng suất đào lò tại các mỏ Khe Chàm, Mông Dương, Dương Huy, Hà Lầm, Vàng Danh, Nam Mẫu, …

Để có thể mở rộng áp dụng cơ giới hóa đào lò và khai thác, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã đề xuất một số kiến nghị sau:

1.  Đẩy mạnh công tác thăm dò bổ sung, thăm dò tỉ mỉ để có cơ sở đánh giá chính xác trữ lượng than có khả năng áp dụng cơ giới hóa khai thác, nâng cao mức độ tin cậy phần trữ lượng các khu vực trong kế hoạch khai thác đến năm 2020;

2. Xây dựng trung tâm bảo trì và bảo dưỡng thiết bị, phục vụ bảo trì, sửa chữa lớn các thiết bị cơ giới hóa, đồng thời là nơi đào tạo thợ cơ khí có tay nghề cao. Bên cạnh đó mỗi mỏ phải chủ động lập các xưởng sửa chữa nhỏ để hạn chế ách tắc sản xuất;

3. Đẩy mạnh phát triển chế tạo cơ khí trong nước nhằm từng bước làm chủ quá trình từ thiết kế đến chế tạo các thiết bị mỏ nói chung và các thiết bị phục vụ cơ giới hóa khai thác, đào lò nói riêng, giảm phụ thuộc nhập ngoại;

4. Từ thực tế áp dụng cơ giới hóa khai thác cho thấy, trong điều kiện hiện nay việc áp dụng cơ giới hóa trong đào lò và khai thác có giá thành cao hơn so với đào lò và khai thác thủ công. Do vậy để bù đắp vốn đầu tư và chi phí sản xuất, Tập đoàn cần tạo cơ chế về giá thành hợp lý và trợ giá khuyến khích các đơn vị áp dụng cơ giới hóa.

5. Huy động tối đa vốn đầu tư từ các nguồn vốn trong và ngoài Tập đoàn cho các dự án cơ giới hóa khai thác và đào lò, đồng thời có sự gắn kết chặt chẽ của Tập đoàn, của các đơn vị tư vấn nghiên cứu với các đơn vị khai thác hầm lò trong quá trình đầu tư và phát triển áp dụng cơ giới hóa.

Phó Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải thay mặt lãnh đạo Tập đoàn ghi nhận những đóng góp của Viện trong việc phát triển khoa học công nghệ của Tập đoàn nói chung và triển khai áp dụng cơ giới hóa khai thác, đào lò nói riêng. Đối với những đề xuất, kiến nghị của Viện, lãnh đạo Tập đoàn sẽ nghiên cứu và sớm có kết luận./.

Hội nghị nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở

Ngày 8/12/2012, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu đề tài &quot;Nghiên cứu phòng chống nước cho mỏ than hầm lò khai thác dưới bãi thải trong&quot;

 

Ngày 8/12/2012, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu phòng chống nước cho mỏ than hầm lò khai thác dưới bãi thải trong

Cơ quan quản lý: Bộ Công Thương

Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin;

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Hữu Huấn

Hội đồng KHCN cấp cơ sở được thành lập theo Quyết định của Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, số 422/ QĐ-QLKH, ngày 30 tháng 11 năm 2012, gồm 7 thành viên.

TS. Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Chủ tịch

TS. Trương Đức Dư, Phó Viện trưởng – Phó chủ tịch

TS. Nguyễn Văn Chi, Hội KHCN Mỏ – Phản biện 1

TS. Đào Hồng Quảng, Trưởng phòng – Phản biện 2.

TS. Trần Tú Ba, Phó Viện trưởng – Ủy viên.

TS. Lưu Văn Thực, Phó Viện trưởng – Ủy viên.

TS. Phan Xuân Bình, Trưởng phòng – Ủy viên thư ký.

Hiện nay, tổng trữ lượng than có thể khai thác hầm lò nằm trong vùng ảnh hưởng của khai thác than lộ thiên khoảng 293.539,7 ngàn tấn, trong đó trữ lượng các khu vực nằm tại bờ moong (rìa moong) chiếm khoảng 94.767,7 ngàn tấn và dưới đáy moong khoảng 198.772 ngàn tấn. Để huy động vào khai thác trữ lượng than này, nhóm thực hiện đề tài đã tập trung nghiên cứu tổng quan giải pháp phòng chống nước cho mỏ than hầm lò khai thác dưới bãi thải trong; các nguồn nước chảy vào bãi thải trong các mỏ than khai thác đồng thời lộ thiên – hầm lò tại khu vực Hòn Gai, Uông Bí, Cẩm Phả, Nội Địa; nghiên cứu, đánh giá sự thay đổi tính thấm lớp đất đá ngăn cách giữa bãi thải trong với lò chợ khấu than phá hỏa toàn phần bên dưới. Qua đó đề xuất các giải pháp phòng chống nước cho hầm lò khai thác dưới bãi thải trong như chống thấm nước đáy bãi thải trong; ngăn chặn nước mưa ngấm chảy trực tiếp từ bề mặt moong bãi thải trong; tháo khô mỏ; khai thác an toàn phòng chống bục nước từ moong bãi thải trong; sử dụng vật liệu phụt ép bịt nước, gia cường đất đá. Quá trình tính toán dự kiến áp dụng cho mỏ than hầm lò Núi Béo cho thấy, để ngăn nước tàng trữ trong moong bãi thải trong vỉa 14,11, nhóm thực hiện đề tài đề xuất sử dụng tổ hợp các giải pháp: chống thấm nước bề mặt bãi thải trong, thoát nước cưỡng bức trên bề mặt, thoát nước cưỡng bức từ trong lò, quan trắc nước tầng trữ trong bãi thải trong. Đối với khu vực vỉa 10,11 bị ảnh hưởng bởi nước tàng trữ trong moong bãi thải trong sẽ huy động khai thác vào cuối đời mỏ, bằng công nghệ chèn lò toàn phần.

Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được các thành viên của Hội đồng thông qua cấp cơ sở và đóng góp ý kiến để chỉnh sửa hoàn chỉnh đưa báo cáo tại Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ Công Thương.

Hội nghị nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ

Sáng ngày 7/12/2012, Bộ Công Thương đã tổ chức hội nghị nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ &quot;Lập Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện (nhóm 2) dung trong môi trường nguy hiểm nổ; Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Kíp nổ vi sai phi điện an toàn trong môi trường có khí nổ; Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Dây dẫn tín hiệu nổ cho kíp vi sai phi điện&quot;.

Sáng ngày 7/12/2012, Bộ Công Thương đã tổ chức hội nghị nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Lập Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện (nhóm 2) dung trong môi trường nguy hiểm nổ; Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Kíp nổ vi sai phi điện an toàn trong môi trường có khí nổ; Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Dây dẫn tín hiệu nổ cho kíp vi sai phi điện”.

Cơ quan quản lý: Bộ Công Thương

Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin;

Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Tú Ba.

Hội đồng KHCN Bộ Công Thương được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công thương, số 4638/QĐ-BCT, ngày 13/8/2012, gồm 11 thành viên:

TSKH. Trần Kỳ Phúc, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng – Chủ tịch;

ThS. Phan Công Hợp, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương – Phó Chủ tịch.

PGS.TS. Bùi Đình Tiếu, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội – Ủy viên phản biện 1.

PGS.TS. Phạm Văn Bình, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội – Ủy viên phản biện 2.

KS. Nguyễn Văn Long, Phó Vụ trưởng Vụ KHCN và Tiết kiệm năng lượng, Tổng cục năng lượng – Ủy viên

ThS. Nguyễn Duy Hòa, Trưởng phòng Tiêu chuẩn do lường chất lượng và Sở hữu trí tuệ – Ủy viên.

ThS. Đặng Hải Dũng, Vụ KHCN và Tiết kiệm năng lượng, Tổng cục năng lượng – Ủy Viên.

TS. Đào Đắc Tạo, Hội Khoa học Công nghệ Mỏ Việt Nam – Ủy viên.

KS. Vũ Văn Dong, Phó trưởng phòng An toàn Mỏ và Dầu khí, Cục ATMT, Bộ Công Thương – Ủy viên

Bà. Vũ Thị Hồng Hạnh, Vụ Tiêu chuẩn – Tổng Cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng – Ủy viên.

ThS. Đào Trọng Cường, Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương – Ủy viên, Thư ký Hội đồng

Bộ Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về thiết bị điện nhóm 2 dùng trong môi trường khí nổ là cơ sở pháp lý cho các đơn vị chế tạo thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ trong nước (Dầu khí, Hóa chất, …) hạn chế nhập khẩu, mang hiệu quả cho nền kinh tế, chủ động trong sản xuất, sửa chữa, thử nghiệm, kiểm định trong nước, đáp ứng yêu cầu của thực tế và giảm chi phí.

Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã thiết lập Ban soạn thảo bộ Quy chuẩn do TS.Trần Tú Ba, Phó Viện trưởng làm trưởng ban, cùng các chuyên gia về lĩnh vực thiết bị điện phòng nổ thực hiện nhiệm vụ. Ban soạn thảo đã lấy bộ tiêu chuẩn Quốc tế về thiết bị điện (IEC) làm cơ sở để xây dựng bộ quy chuẩn thiết bị điện (nhóm 2) dùng trong môi trường nguy hiểm nổ bao gồm:

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ – Yêu cầu chung;

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ – Thiết bị có vỏ không xuyên nổ (dạng bảo vệ “d”);

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ – Thiết bị được thổi dưới áp suất dư (dạng bảo vệ “p”);

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ – Thiết bị đổ đầy cát (dạng bảo vệ “q”);

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ – Thiết bị đổ đầy dầu (dạng bảo vệ “0”);

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ – Thiết bị tăng cường độ tin cậy (dạng bảo vệ “e”);

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ – Thiết bị an toàn tia lửa (dạng bảo vệ “i”);

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ – Thiết bị đổ đầy chất bao phủ (dạng bảo vệ “m”);

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ – Kiểm tra và bảo dưỡng thiết bị;

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Thiết bị điện dùng trong môi trường nguy hiểm nổ – Sửa chữa và đại tu thiết bị;

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Kíp nổ vi sai phi điện an toàn trong môi trường có khí nổ;

– Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về Dây dẫn tín hiệu nổ cho kíp vi sai phi điện.

Chủ tịch Hội đồng KHCN TSKH. Trần Kỳ Phúc phát biểu kết luận Hội nghị

Kết quả thực hiện đã được Hội đồng KHCN của Bộ Công Thương đánh giá hoàn thành mục tiêu, phương pháp nghiên cứu hợp lý, nội dung đáp ứng yêu cầu, sản phẩm của đề tài đảm bảo về số lượng, chất lượng và đã thống nhất nghiệm thu nhiệm vụ. Tuy nhiên nhóm thực hiện cần phải sửa một số lỗi do in ấn, chuẩn xác một số thuật ngữ sử dụng trong Quy chuẩn trước khi trình duyệt, ban hành./.

Đảng uỷ Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/ĐU tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin

Ngày 20/10/2015, tại Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, BCH Đảng uỷ Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản đã có đã có buổi kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/ĐU ngày 8/12/2014 của Đảng uỷ Tập đoàn về việc “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hện thắng lợi nhiệm vụ chính trị năm 2015” của các đơn vị trong Tập đoàn TKV.

Đoàn kiểm tra BCH Đảng uỷ Tập đoàn gồm có: ông Lê Văn Ninh Uỷ viên thường vụ, Chủ nhiệm ủy ban kiểm tra,bà Đặng Thị Tuyết, Uỷ viên BCH, Phó Chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra, ông Bùi Ngọc Sơn, Uỷ viên BCH, Trưởng Ban Tổ chức Đảng uỷ.

Tại buổi làm việc, Bí thư Đảng uỷ, Viện trưởng Trần Tú Ba, đã báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/ĐU của Đảng uỷ Tập đoàn tại Viện, trong đó, tập trung vào việc thực hiện 6 giải pháp chủ yếu. Theo đó, để thực hiện tốt Nghị quyết số 29-NQ/ĐU của Đảng uỷ Tập đoàn, trong thời gian qua, Đảng uỷ và Ban lãnh đạo Viện đã cụ thể hoá bằng những chương trình hành động thông qua 10 nhiệm vụ trọng tâm và 9 giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo thực hiện tốt công tác nghiên cứu khoa học công nghệ, chuyển giao các sản phẩm khoa học công nghệ của Viện vào sản xuất, nghiên cứu, đảm bảo việc làm và thu nhập ổn định cho CBVC.

Trong 9 tháng đầu năm 2015, doanh thu của Viện trên 190 tỷ đồng đạt 74% kế hoạch, tiền lương bình quân 9,8 triệu đồng/ người/tháng; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được triển khai đồng bộ thường xuyên, góp phần giữ vững đoàn kết thống nhất trong toàn Viện, quy chế dân chủ được thực hiện nghiêm túc, công khai, minh bạch, động viên kịp thời, tạo môi trường thân thiện, phấn khởi để người lao động yên tâm công tác, phát huy năng lực và trí tuệ góp phần xây dựng Viện ổn định và phát triển bền vững; xây dựng và tổ chức thực hiện nhiều Chỉ thị, Nghị quyết góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong Viện ổn định, vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; quan tâm làm tốt công tác xây dựng Đảng, quan tâm công tác phát triển đảng viên. Công tác củng cố, kiện toàn, công tác tái cơ cấu tại Công ty Cổ phần Phát triển Công nghệ và Thiết bị Mỏ được thực hiện đúng tiến độ, sau khi tái cơ cấu Công ty đã phát triển ổn định, đời sống CBCNV được đảm bảo; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng được quan tâm, tập trung đi vào những nội dung cụ thể, thiết thực. Công tác tổ chức cán bộ được thực hiện đúng quy trình, thủ tục, đáp ứng được yêu cầu của Viện trong quá trình sắp xếp, củng cố đội ngũ cán bộ; công tác chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho CBCNV được quan tâm thực hiện tốt, tạo không khí vui tươi phấn khởi cho CBCNV; thực hiện tốt các nội dung liên quan đến công tác kiểm tra – giám sát, công tác kiểm điểm, đánh giá phân loại thường kỳ cán bộ, đảng viên và các tổ chức cơ sở Đảng. Giải quyết tốt công tác thanh tra, dân chủ và minh bạch; công tác lãnh đạo các tổ chức đoàn thể đã góp phần chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên.

Đoàn kiểm tra đã đánh giá cao các kết quả Đảng bộ Viện đã đạt được trong thời gian qua đồng thời chỉ đạo trong thời gian tới Viện cần xây dựng chương trình hành động cụ thể, phổ biến đến từng đảng viên và CBVC về các Nghị quyết của Đảng uỷ Tập đoàn; làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng, tăng cường sinh hoạt chi bộ; nâng cao hơn nữa công tác kiểm tra giám sát đặc biệt chú trọng đến công tác giám sát thường xuyên; tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Giao hữu bóng đá chào mừng 20 năm thành lập Tổng Công ty Khoáng sản – TKV

Ngày 17/10/2015, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Tổng Công ty Khoáng sản – TKV đã tổ chức giao hữu bóng đá chào mừng 20 năm thành lập Tổng Công ty Khoáng sản – TKV.

Tham dự giải, cùng với đội chủ nhà, Tổng Công ty Khoáng sản – TKV, là sự góp mặt của đội Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin, Công ty CP Xuất nhập khẩu than – Vinacomin (Coalimex) và Tổng Công ty Hóa chất mỏ – Vinacomin.

Với 4 đội tham dự, các đội đã bốc thăm chia làm 2 cặp đấu, loại trực tiếp, hai đội thắng gặp nhau tranh giải Nhất và 2 đội thua tranh giải Ba.

Theo thể thức nói trên, khai mạc giải là trận đấu giữa đội Viện Khoa học Công nghệ Mỏ và đội Tổng Công ty Khoáng sản. Trận tiếp theo là đội Coalimex và đội Tổng Công ty Hóa chất mỏ.

Sau lượt trận đầu tiên đã xác định được hai đội thắng là đội Viện Khoa học Công nghệ Mỏ và đội Coalimex.

Kết quả chung cuộc, giải Nhất thuộc về đội Viện Khoa học Công nghệ Mỏ, giải Nhì thuộc về đội Coalimex, đội Tổng Công ty Hóa chất mỏ giành giải Ba và đội chủ nhà giành giải khuyến khích./.

Sinh hoạt dã ngoại kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Na

Trong 2 ngày 16 và 17/10/2015, Công đoàn Viện Khoa học Công nghệ Mỏ – Vinacomin đã tổ chức sinh hoạt dã ngoại, chào mừng 85 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 – 20/10/2015). Cùng toàn thể chị em của Viện, chuyến sinh hoạt dã ngoại lần này còn có sự tham gia của Ban lãnh đạo Viện, lãnh đạo các đơn vị thành viên và một số trưởng phòng chuyên môn nghiệp vụ của Viện.

Trong chuyến dã ngoại, đoàn đã thăm khu danh thắng Tây Thiên, vãn cảnh, giao lưu tại thị trấn Tam đảo, chinh phục đỉnh Thiện Nhị và viếng đền thờ Mẫu Thượng Ngàn.

Khu danh thắng Tây Thiên thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, là một quần thể văn hóa du lịch tổng hợp, là nơi hoà quyện giữa đạo Mẫu và Đạo Phật, đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia từ năm 1991, với các công trình: Thiền Viện Trúc Lâm, đền thượng Tây thiên, đền Quốc Mẫu Tây thiên, đền trình, đền thờ cô bé, đền thờ cậu bé,…

Tương truyền, khoảng thế kỷ thứ 3, có một vị hòa thượng tên là Khương Tăng Hội dừng chân ở đây, dựng chùa truyền giáo, xây dựng nên chùa Tây Thiên và Thiền tự, Từ Thiền tự, Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên được xây dựng, khởi công ngày 4/4/2004 và được khánh thành ngày 25/11/2005. Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên là nơi đào tạo về Phật giáo. Vì vậy, Tây Thiên được coi là cái nôi của Phật giáo Việt Nam.

Cũng theo tương truyền, Vua Hùng thứ 6 tên là Hùng Chiêu Vương lên chùa Thiên Ân trên đỉnh núi Tam Đảo để cầu tự, khi trở về đã gặp bà Lăng Thị Tiêu và rước về làm vợ. Bà là người xinh đẹp, giỏi giang, có tài thao lược, giúp vua Hùng đánh giặc giữ nước Văn Lang, dạy dân trồng lúa, giữ lửa trong buổi bình minh của dân tộc, xây dựng một đất nước thái bình trịnh trị. Với những công lao đó, Bà được sắc phong là Quốc Mẫu Tây Thiên và được thờ chính tại Đền Thượng trên đỉnh núi Thạch Bàn. Sau khi mất bà vẫn thường hiển linh giúp các đời vua Hùng sau giữ nước, vì thế Bà đã được suy tôn danh hiệu “Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Tối Linh Đại Vương – Thượng Đẳng Phúc Thần”.

Tăng cường các giải pháp hoàn thành kế hoạch năm 2015

Sáng nay 9/10, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tổ chức Hội nghị sơ kết công tác quý III, 9 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ quý IV/2015. Dự Hội nghị có các đồng chí: Lê Minh Chuẩn, Chủ tịch HĐTV; Đặng Thanh Hải, Tổng Giám đốc; Đỗ Đình Hiền, Chủ tịch Công đoàn TKV; các đồng chí trong Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn; HĐTV; Ban lãnh đạo điều hành; Kiểm soát viên nhà nước tại Tập đoàn; Công đoàn TKV; Đảng ủy, Đoàn TQN và lãnh đạo chủ chốt các Tổng Công ty, Công ty, đơn vị trực thuộc Tập đoàn. Chủ tịch HĐTV Lê Minh Chuẩn và Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải chủ trì Hội nghị.

Hội nghị đã đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch SXKD 9 tháng đầu năm 2015. Theo đó, tuy sản lượng khai thác tăng nhưng do giá bán giảm mạnh làm cho ngành khai khoáng nói chung gặp nhiều khó khăn; điều kiện khai thác than ngày càng xuống sâu và đi xa hơn, cùng với ảnh hưởng của đợt mưa lũ đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành Than. Với sự chỉ đạo quyết liệt, chủ động, tích cực, Tập đoàn và các đơn vị đã có nhiều cố gắng trong việc ổn định sản xuất, việc làm và thu nhập người lao động. Các chỉ tiêu cơ bản 9 tháng đầu năm đạt được như sản xuất than nguyên khai đạt 28,5 triệu tấn, đạt 70% KHN, bằng 105% so với cùng kỳ; than tiêu thụ đạt 26,2 triệu tấn, đạt 69% kế hoạch và bằng 103% so cùng kỳ; doanh thu ước đạt trên 80.600 tỷ đồng, trong đó doanh thu than đạt trên 37.400 tỷ đồng; thu nhập bình quân của người lao động đạt 8,5 triệu đồng/người/tháng. Các lĩnh vực sản xuất khác như khoáng sản, điện, vật liệu nổ công nghiệp, cơ khí, thương mại và dịch vụ khác cũng đạt được kết quả tích cực. Cùng với đó, công tác tái cơ cấu được thực hiện quyết liệt, tính đến hết tháng 9/2015, Tập đoàn đã thực hiện Đề án tái cơ cấu theo đúng tiến độ; tích cực triển khai các dự án phát triển mỏ và các dự án sản xuất điện, khoáng sản, hóa chất…; nhiều cơ chế, giải pháp quản lý điều hành đã được triển khai và đang tập trung chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả SXKD.

Triển khai nhiệm vụ, kế hoạch quý IV/2015, Tập đoàn đặt chỉ tiêu: than nguyên khai sản xuất 8,7 triệu tấn; cả năm 37,2 triệu tấn; than tiêu thụ 9-9,3 triệu tấn, cả năm từ 35 – 35,5 triệu tấn. Tiếp tục bám sát thị trường, điều hành, cân đối giữa sản xuất, tiêu thụ để đáp ứng nhu cầu than trong quý IV và chuẩn bị cho năm 2016. Đẩy mạnh tiến độ các dự án đã đầu tư và khởi công các dự án mới, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản trị, cơ chế điều hành kế hoạch phối hợp SXKD và quản trị chi phí, công tác quản lý, kỹ thuật…

Giao ban điều hành sản xuất tháng 10

Ngày 6-10-2015, Tổng Giám đốc Tập đoàn Đặng Thanh Hải đã chủ trì Hội nghị giao ban trực tuyến điều hành sản xuất tháng 10-2015 giữa hai điểm cầu Hà Nội và Quảng Ninh.

Trong tháng 9-2015, Tập đoàn đã tập trung chỉ đạo các đơn vị khắc phục hậu quả của mưa lũ, đưa các mỏ trở lại sản xuất. Mặc dù vừa khắc phục vừa ổn định sản xuất nhưng một số chỉ tiêu sản lượng chủ yếu vẫn cơ bản đạt được kế hoạch đề ra như: than nguyên khai sản xuất 2,7 triệu tấn; than sạch tiêu thụ 2,8 triệu tấn (trong đó xuất khẩu 131 ngàn tấn; tiêu thụ trong nước 2,6 triệu tấn); đất bóc 11,5 triệu mét khối; đào lò 21,9 ngàn mét. Ngoài ra, các chỉ tiêu khác như: về khoáng sản gồm thiếc thỏi 85 tấn, tinh quặng đồng 4.892 tấn, đồng tấm 527 tấn; sản xuất và tiêu thụ điện đạt 600 triệu KWh; sản xuất thuốc nổ công nghiệp 4.050 tấn, cung ứng tiêu thụ thuốc nổ 7.000 tấn… Theo đó, các chỉ tiêu về doanh thu tiêu thụ than đạt 3.661 tỷ đồng; doanh thu tiêu thụ khoáng sản 577 tỷ đồng; doanh thu bán điện 784 tỷ đồng; doanh thu sản xuất cơ khí 256 tỷ đồng; doanh thu vật liệu nổ công nghiệp 286 tỷ đồng…
Chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ tháng 10, Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải nhấn mạnh, các đơn vị chú trọng đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ, phấn đấu hoàn thành kế hoạch được giao. Đối với công tác tiêu thụ than, bám sát thị trường đảm bảo bảo cung cấp than kịp thời cho các hộ điện, nhất là Nhiệt điện Mông Dương. Các lĩnh vực sản xuất khoáng sản, điện lực, cơ khí cần tăng cường đẩy mạnh sản xuất, tiêu thụ để đảm bảo thực hiện theo đúng tiến độ kế hoạch đề ra. Trong công tác an toàn, tăng cường kiểm tra, đôn đốc các đơn vị sản xuất trong toàn Tập đoàn tổ chức triển khai việc thực hiện đồng bộ các giải pháp, biện pháp để đảm bảo an toàn. “Thời tiết có thể có những diễn biến phức tạp tiếp theo, vì vậy tiếp tục đôn đốc các đơn vị tích cực thực hiện các biện pháp phòng ngừa, đặc biệt chú trọng các đơn vị sản xuất than, khoáng sản…” – Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải nói.
Ngoài ra, Tổng Giám đốc cũng chỉ đạo một số nhiệm vụ quan trọng như: Tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án than, điện, alumin, gang thép đang triển khai; rà soát công tác cung cấp nguyên liệu cho nhà máy hoá chất; sử dụng quỹ môi trường theo hướng ưu tiên hoàn nguyên môi trường; triển khai kế hoạch 2016…

Nhận diện những nguy cơ, thách thức tác động đến sự phát triển bền vững của Tập đoàn giai đoạn 2015 – 2020 và các giải pháp căn bản để hoàn thành mục tiêu Đại hội Đảng bộ Tập đoàn lần thứ II đề ra

Nhìn lại mục tiêu tổng quát của hai kỳ Đại hội Đảng bộ Tập đoàn, chúng ta thấy rõ có sự thay đổi lớn trong xác định mục tiêu chiến lược của từng giai đoạn. Mục tiêu của Đại hội Đảng bộ Tập đoàn lần thứ nhất là: “…xây dựng Tập đoàn trở thành Tập đoàn công nghiệp – thương mại – tài chính – kinh doanh đa ngành…” đến mục tiêu của Đại hội lần này là “…giữ vững vai trò Tập đoàn kinh tế mạnh, là một trong 3 trụ cột đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia…”. Đó là sự thay đổi về chất trong nội dung trọng tâm phát triển sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn. Điều đó đặt ra vấn đề với chúng ta là giải pháp nào đảm bảo sự phát triển bền vững của Tập đoàn? Để trả lời câu câu hỏi này, chúng ta cần nhận diện một cách rõ ràng những nguy cơ, thách thức tác động đến sự phát triển của Tập đoàn và đưa ra những giải pháp để hoàn thành mục tiêu giai đoạn 2015 – 2020.

I. Những nguy cơ, thách thức tác động đến sự phát triển bền vững của Tập đoàn trong giai đoạn 2015 – 2020.

1.  Năng suất lao động thấp: mặc dù năng suất lao động chung toàn Tập đoàn đã được cải thiện nhiều trong những năm gần đây song vẫn còn ở mức thấp so với một số nước trong khu vực có cùng ngành nghề, có điều kiện địa chất, kỹ thuật mỏ tương tự như của chúng ta. Đây là nguy cơ lớn nhất tác động đến sức cạnh tranh của các sản phẩm và cũng đang là nguy cơ trực tiếp có thể dẫn đến sự “thất bại thị trường” của Tập đoàn.

2. Công tác quy hoạch ngành thành một hệ thống “kinh doanh mỏ”, từ khâu mở mỏ, trình tự khai thác, đổ thải, cơ sở hạ tầng (đường vận chuyển, điện, nước, cảng…), chế biến và tiêu thụ, các công trình môi trường chưa tính toán đầy đủ đến các yếu tố khu vực dân cư xung quanh, sự tác động của biến đổi khí hậu cực đoan, do đó đã dẫn đến các nguy cơ rủi ro cao do sự chồng lấn, sạt lở, trôi lấp… gây ra thiệt hại nghiêm trọng (như tác động của thiên tai mưa lũ lớn trong thời gian đầu tháng 8 vừa qua).

3. Tập đoàn chịu sự tác động nhiều hơn của những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hóa trong nước và quốc tế (giá các sản phẩm than, khoáng sản đang giảm mạnh do tác động của thị trường tài chính và xung đột lợi ích chính trị), tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển kinh doanh bền vững của Tập đoàn. Đây sẽ là một thách thức lớn đối với các giải pháp quản lý tài chính và đầu tư của Tập đoàn trong giai đoạn 2015 – 2020.

4. Giải pháp “xã hội hóa” trong lĩnh vực đầu tư mỏ là một giải pháp đúng nếu thực hiện theo mô hình “đối tác công – tư”, tuy nhiên trên thực tế trong thời gian qua giải pháp này chủ yếu được thực hiện theo hướng “tư nhân hóa” các dự án đầu tư và dịch vụ của Tập đoàn. Điều này có nguy cơ dẫn đến thiệt hại từ phân chia lợi ích của dự án, dịch vụ giữa tư nhân (dòng tiền dương) và Tập đoàn (dòng tiền âm), và triệt tiêu các lợi ích không tính được bằng tiền của dự án (như việc làm, lợi ích môi trường, cộng đồng).

5. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên của Tập đoàn (bao gồm cán bộ quản lý, quản trị doanh nghiệp, chuyên gia, và công nhân kỹ thuật trong các lĩnh vực) còn thiếu và yếu. Lực lượng lao động trực tiếp (thợ lò), chưa được đào tạo một cách toàn diện về kỹ năng và lòng yêu nghề, cùng với đó môi trường lao động nghề mỏ nặng nhọc độc hại, các chính sách đãi ngộ chưa tương xứng… dẫn đến thợ lò bỏ việc ngày càng nhiều. Đây là nguy cơ, thách thức lớn của Tập đoàn trong giai đoạn hiện nay và tương lai.

6. Ngoài ra, còn có sự thiếu hoàn thiện của hệ thống pháp lý; thiếu đồng bộ giữa quy hoạch phát triển năng lượng của Nhà nước và các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương; các chính sách quản lý của Nhà nước đối với ngành Than hay thay đổi, biến động. Đặc biệt là các chính sách liên quan đến thuế, phí, giấy phép các loại…, do đó ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của Tập đoàn.

II. Các giải pháp căn bản để hoàn thành mục tiêu Đại hội Đảng bộ Tập đoàn lần thứ II, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đề ra.

Để Tập đoàn có thể hóa giải những nguy cơ, vượt qua thử thách, đảm bảo hoàn thành tốt mục tiêu Đại hội Đảng bộ Tập đoàn lần thứ II, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đề ra, cần tập trung vào một số giải pháp căn bản sau:

1. Quản trị tài nguyên như một nguồn vốn gắn liền với chiến lược đầu tư phát triển kinh doanh bền vững bằng việc:

– Nâng cao năng lực thực tiễn về khảo sát, thăm dò địa chất đối với các vỉa than, khoáng sản rắn sâu (từ -300m trở xuống) đối với các vùng Quảng Ninh, đồng bằng Sông Hồng.

– Nhanh chóng tiếp cận và ứng dụng thực tiễn các phương pháp phân tích số liệu địa chất bằng mô hình hóa, tối ưu hóa với độ tin cậy cao và lập báo cáo đánh giá trữ lượng, chất lượng than, khoáng sản đạt tiêu chuẩn trong nước và quốc tế.

– Nghiên cứu thử nghiệm “khoán” trữ lượng tài nguyên khoáng sản trong hệ thống quản trị doanh nghiệp mỏ để nâng cao hiệu quả quá trình quản trị, chống thất thoát, lãng phí tài nguyên than và khoáng sản.

2. Phát triển nguồn nhân lực Tập đoàn dựa trên cơ sở triết lý kinh doanh của mô hình quản trị hiện đại: đó là vừa tạo ra lợi nhuận, vừa phát triển đội ngũ giai cấp công nhân mỏ trung thành, lao động sáng tạo và có cơ hội thăng tiến. Bao gồm cán bộ quản lý, quản trị cao cấp, chuyên gia, công nhân kỹ thuật trong các lĩnh vực. Đây chính là chìa khóa tạo ra năng suất và phát triển bền vững của Tập đoàn. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến công tác cán bộ, bởi vì hiện nay có không ít cán bộ có xu hướng ngại khó, giảm sút tình yêu nghề. Do đó, công tác cán bộ phải lựa chọn được những cán bộ không những đáp ứng các tiêu chuẩn đã đề ra, mà còn phải có tình yêu nghề, có lòng quả cảm, dám dấn thân vào những việc khó khăn, thách thức.

3. Giải pháp quản trị kinh doanh

– Tái cơ cấu phương thức quản lý kinh doanh của Tập đoàn theo nguyên tắc tạo mọi điều kiện để các công ty thành viên chủ động sản xuất và kinh doanh, là cơ sở để nâng cao năng suất lao động. Tiếp tục hoàn thiện giải pháp “xã hội hóa” theo mô hình hợp tác công – tư, đảm bảo lợi ích của Tập đoàn, đồng thời tạo ra một thị trường huy động vốn tư nhân thực sự có hiệu quả (dòng tiền dương cho Tập đoàn).

– Tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán, quản trị chi phí trong toàn Tập đoàn dựa trên cơ sở các hệ thống định mức kinh tế – kỹ thuật tiên tiến, kết hợp với các phương pháp phân tích cơ cấu giá thành phù hợp với các điều kiện địa chất, khai thác khác nhau, đồng thời có tính đến sự đồng bộ trong khai thác, vận chuyển và đổ thải về không gian và thời gian của các mỏ trong vùng.

4. Giải pháp về công nghệ khai thác:

– Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư xây dựng, đầu tư phát triển khoa học, đổi mới công nghệ, hiện đại hóa các cơ sở sản xuất, nâng cao mức độ an toàn, bảo vệ môi trường, đảm bảo tiến độ các dự án quyết định tăng trưởng của Tập đoàn trong các lĩnh vực để hoàn thành và hoàn thành kế hoạch giai đoạn 2015-2020 và định hướng phát triển đến năm 2030 đã đề ra. Trước mắt tập trung ưu tiên đẩy mạnh các dự án khai thác mỏ than hầm lò.

– Cần có các giải pháp quy hoạch và cải tạo tối ưu đối với các mỏ than lộ thiên tại vùng Hòn Gai sẽ tạm dừng khai thác trong giai đoạn 2015 – 2020, các vùng đất khai thác bauxite tại Lâm Đồng, Đắk Nông và các khu vực khai thác khoáng sản khác trên cơ sở đảm bảo mục tiêu chuyển đổi và tạo ra các vùng đất có giá trị kinh tế xã hội cao và phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

– Xu hướng phân bố tài nguyên trữ lượng than, khoáng sản ngày càng sâu và phức tạp đòi hỏi phải phát triển hệ thống khai thác liên kết một số mỏ hiện nay thành hệ thống mỏ lớn. Trước mắt triển khai liên thông thành công 3 mỏ lộ thiên Cao Sơn, Cọc Sáu và Đèo Nai. Sau sẽ nghiên cứu lựa chọn liên thông một số mỏ hầm lò. Do đó, đòi hỏi phải thay đổi tư duy và phương pháp ngay từ công tác tư vấn, thiết kế và nghiên cứu, cũng như quản lý, vận hành khai thác kinh doanh mỏ dựa trên cơ sở mô hình hóa (tài nguyên) và tối ưu hóa (mỏ) trong không gian và theo thời gian ngay từ bây giờ.

5. Phát triển và củng cố các mối quan hệ hợp tác trong và ngoài nước: (i) Tiếp tục xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với các đối tác bạn hàng lớn, truyền thống trong nước như: Tổng Công ty Đông Bắc, EVN, PVN, Tổng Công ty xi măng, hóa chất…và các khách hàng lớn khác trên cơ sở tin cậy, lâu dài và cùng có lợi. (ii) Quan hệ mật thiết với các địa phương nơi có hoạt động SXKD của Tập đoàn, nhất là các địa bàn chiến lược như: Quảng Ninh, Lào Cai, Lâm Đồng, Đăk Nông, Hà Tĩnh…nhằm tiếp tục xây dựng môi trường kinh doanh hài hòa lợi ích với cộng đồng, địa phương. (iii) Duy trì và phát triển các mối quan hệ với các đối tác nước ngoài như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Úc,… không chỉ là tạo ra thị trường thương mại, mà còn là thị trường chuyển giao công nghệ và tri thức tiên tiến, hiện đại trên phạm vi toàn cầu.

Với quyết tâm cao của Đảng bộ Tập đoàn và sự tin tưởng, ủng hộ mạnh mẽ của đảng viên, cán bộ công nhân viên và đội ngũ thợ mỏ, TKV sẽ có đủ sức mạnh để hóa giải được các nguy cơ, tiếp tục lãnh chỉ đạo Tập đoàn phát triển bền vững và hướng tới các mục tiêu cao hơn.

Đoàn công tác của Tổng Cục Địa chất và Khoáng sản Vương quốc Campuchia làm việc với TKV

Ngày 29/9, tại Văn phòng Tập đoàn, Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Anh Tuấn đã có buổi làm việc với đoàn công tác của Tổng Cục Địa chất và Khoáng sản Vương quốc Campuchia do ông Ros Mony Rath – Tổng Cục trưởng – dẫn đầu

Tại buổi làm việc, hai bên đã bàn và trao đổi về các dự án khai thác và thăm dò khoáng sản của TKV tại Vương quốc Campuchia và chương trình đào tạo sinh viên Campuchia tại trường Đại học Mỏ Địa chất. Về phía Campuchia, ông Ros Mony Rathcũng đã trao đổi, bày tỏ quan điểm đồng thời đưa ra những kiến nghị trong các lĩnh vực mà TKV hiện đang đầu tư tại Campuchia.

Nguồn: Vinacomin.vn

Tổng Giám đốc TKV biểu dương kết quả khắc phục sự cố mỏ Mông Dương

Sáng nay (24/9), Tổng Giám đốc Tập đoàn Đặng Thanh Hải đã đến kiểm tra công tác khắc phục hậu quả mưa lũ, khôi phục và tổ chức sản xuất của Công ty cổ phần than Mông Dương. Tham gia cùng đoàn còn có các đồng chí Ngô Hoàng Ngân – Bí thư Đảng ủy Than Quảng Ninh, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn; đồng chí Phạm Trung Tuấn – Phó Giám đốc Trung tâm ĐHSX tại Quảng Ninh cùng lãnh đạo một số Ban nghiệp vụ của Tập đoàn.

Theo báo cáo của Công ty cổ phần than Mông Dương, trong những ngày từ 26 đến 28/7/2015 do ảnh hưởng của mưa lớn dài ngày gây ra ngập lụt mỏ Mông Dương. Trong đó, phần mặt bằng công nghiệp mỏ bùn cát, đất đá trôi lấp ngập toàn bộ; phần hầm lò nước ngầm chảy vào với lưu lượng lớn làm ngập toàn bộ đường lò mức -250 trở lên; ngập một phần đường lò mức -97,5; hệ thống trạm điện, hầm bơm thoát nước mỏ, các gương lò chợ, lò chuẩn bị sản xuất … cũng bị ngập lụt, hoặc hư hại. Vì vậy, từ ngày 29/8/2015 mỏ dừng sản xuất, ảnh hưởng đến việc làm hơn 4.000 lao động của công ty; thống kê thiệt hại sơ bộ trên 500 tỷ đồng.

Ngay sau khi sự cố xảy ra, được sự chỉ đạo trực tiếp của Tập đoàn, Công ty đã thành lập và kiện toàn lại Ban chỉ đạo xử lý sự cố ngập mỏ; lập các phương án xử lý sự cố, tổ chức sản xuất, bố trí lao động…  Dự kiến công tác khắc phục sự cố phải kéo dài đến cuối tháng 10/2015. Tuy nhiên, với tinh thần quyết tâm giữ lò, bảo vệ tài sản cho Công ty và cho Tập đoàn, các CBCNV của mỏ than Mông Dương đã phát huy truyền thống “Kỷ luật và Đồng tâm”, không quản vất vả ngày đêm để bơm hút ra khỏi mỏ hơn 4.600 ngàn mnước tại các đường hầm (trung bình trên 90 ngàn m3/ngày, ngày cao nhất đạt 160,8 ngàn m3); sửa chữa các thiết bị máy móc, hệ thống điện, hệ thống thông gió… Kết quả, sau thời gian  1 tháng 20 ngày (từ 1/8 đến 20/9/2015), CBCNV của Công ty đã hoàn thành việc khắc phục sự cố trước thời hạn 1 tháng 10 ngày.

Được sự giúp đỡ tận tình của các đơn vị trong Ngành, bên cạnh việc tích cực khắc phục sự cố, Công ty đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị bạn để điều động 500 CBCNV đến làm việc tại 4 công trường của Công ty Than Khe Chàm, Thống Nhất và Hạ Long để để chờ khôi phục sản xuất.

Ghi nhận sự cố gắng đó Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải đã nhiệt liệt biểu dương công sức của tập thể CBCNV mỏ than Mông Dương. Đồng chí nhấn mạnh, thông qua công tác khắc phục sự cố Mông Dương, một lần nữa, tinh thần giai cấp và truyền thống “Kỷ luật – Đồng tâm” của CBCNV đã một lần nữa tỏa sáng. Đặc biệt là, trong suốt quá trình tiến hành khắc phục hậu quả ngập lụt Công ty đã đảm bảo tuyệt đối an toàn về người. Đồng chí Đặng Thanh Hải cũng đề nghị các Ban nghiệp vụ như KH, Cơ điện, Môi trường… cần quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ để mỏ than Mông Dương nhanh chóng khôi phục sản xuất vào đầu tháng 10 năm nay.

Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Tập đoàn, đồng chí Đặng Thanh Hải đã thưởng “nóng” 50 triệu đồng cho các tập thể, cá nhân đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong việc ứng cứu mỏ, khắc phục sự cố, rút ngắn thời gian xuống sớm hơn dự kiến. Kết quả này cũng thể hiện sự kết tinh của tinh thần “hiệp đồng tác chiến giữa Tập đoàn với Công ty than Mông Dương nói riêng và các công ty than tại Quảng Ninh nói chung.

Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải làm việc với Công ty Taekwang Power Holdings Co.,

Chiều 22/9, Tổng Giám đốc Đặng Thanh Hải đã có buổi làm việc với ông David Kim, Tổng Giám đốc Công ty Taekwang Power Holdings Co., về các điều khoản trong Hợp đồng cung cấp than cho Dự án BOT Nhà máy Nhiệt điện Nam Định 1 do Taekwang Power Holdings Co., làm Chủ đầu tư.

Hợp đồng cung cấp than cho Dự án BOT Nhà máy Nhiệt điện Nam Định 1 (CSA) về cơ bản đã được hai tổ đàm phán của Công ty Taekwang Power Holdings Co., Ltd và TKV thống nhất.  Phiên đàm phán gần đây nhất là các ngày 26/6 và 31/7/2015.

Theo dự kiến, chủng loại than cung cấp cho Dự án BOT Nhà máy Nhiệt điện Nam Định 1 là than cám 6bHG, VD, MK (trường hợp dùng than trong nước) với khối lượng khoảng 4,4 triệu tấn/năm.

Trong tương lai, nếu có bất kỳ thay đổi nào về nguồn than theo Quyết định của Bộ Công Thương, TKV và Chủ đầu tư sẽ tiến hành đàm phán lại CSA căn cứ trên nguồn than mới.

Nguồn: Vinacomin.vn

Lễ khởi công Đề án thăm dò bể than Đồng bằng sông Hồng

Sáng 21/9, tại xã Nam Thịnh, huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình), Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã tổ chức Lễ khởi công thực hiện Đề án thăm dò than khu Nam Thịnh, Nam Hưng, huyện Tiền Hải (thuộc bể than Đồng bằng sông Hồng).

Tham dự và Khởi động Đề án có ông Phạm Văn Sinh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh ủy Thái Bình, ông Nguyễn Hồng Diên – Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình, ông Cao Đức Hưng, Thứ trưởng Bộ Công Thương, ông Lê Minh Chuẩn, Chủ tịch HĐTV TKV, ông Đặng Thanh Hải, Tổng Giám đốc TKV…

Đề án thăm dò bể than Đồng bằng sông Hồngđã được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép thăm dò với quy mô 5,29km2, độ sâu thăm dò đến mức -1.200m, có 23 lỗ khoan với tổng số mét khoan là 19.650m.

Bể than đồng bằng sông Hồng có diện tích khoảng 3.500 km2, nằm trong miền võng Hà Nội, trải dài từ Việt Trì – Phú Thọ đến Tiền Hải – Thái Bình. Dự án thực hiện qua hai giai đoạn. Giai đoạn 1, dự án thi công tại hiện trường trong khoảng thời gian 24 tháng từ tháng 9/2015 đến tháng 9/2017 do Công ty Địa chất mỏ – Vinacomin thi công. Giai đoạn 2 của dự án thực hiện từ tháng 9/2018 đến tháng 3/2019 tổng hợp kết quả thăm dò, lập báo cáo địa chất và tiến hành trình, thông qua tại Hội đồng trữ lượng quốc gia.

Mục đích của Đề án là xác định cấu trúc địa tầng, trữ lượng, chất lượng than, đặc điểm điều kiện địa chất kỹ thuật khoáng sản, làm cơ sở để xem xét nghiên cứu lập dự án thử nghiệm công nghệ, dự án khai thác thử nghiệm và tiến tới đầu tư khai thác với quy mô công nghiệp.

Theo kế hoạch, các chuyên gia, kỹ thuật sẽ lấy hơn 500 mẫu than, 300 mẫu đá, 240 mẫu khí để phân tích đặc điểm tính chất than – đá theo các chỉ tiêu khác nhau.

Tại Lễ khởi công, Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng cho biết, dự báo dự án sẽ có tiềm năng tài nguyên than á bitum rất lớn, khoảng 210 tỷ tấn. Trong điều kiện các mỏ than Đông Bắc ngày càng khai thác xuống sâu và đi xa hơn, việc huy động bể than đồng bằng sông Hồng vào thăm dò khai thác theo Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến 2020, có xét triển vọng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để phục vụ nhu cầu than cho các ngành kinh tế trong nước là hết sức cần thiết và quan trọng. Thứ trưởng cũng cho rằng, Dự án cũng là tiền đề, mở ra cơ hội phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thái Bình nói riêng và đất nước nói chung.

Còn theo Chủ tịch tỉnh Thái Bình Nguyễn Hồng Diên, Thái Bình cam kết sẽ chỉ đạo các Ban ngành, địa phương trong tỉnh tạo điều kiện tối đa, đảm bảo an ninh, an toàn, giải phóng mặt bằng, đẩy mạnh tuyên truyền cho nhân dân. Đồng thời, tỉnh sẽ kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để đề án thực hiện hiệu quả, đúng tiến độ, đảm bảo vệ sinh môi trường, hệ sinh thái…

Thay mặt Tập đoàn, Chủ tịch Lê Minh Chuẩn cho biết sẽ giao nhiệm vụ cho Ban quản lý dự án, các nhà thầu thi công tập trung tổ chức triển khai khoan thăm dò đúng yêu cầu đề án được phê duyệt một cách an toàn, hiệu quả. TKV cũng sẽ phối hợp với các cấp chính quyền địa phương đảm bảo an ninh, trật tự cho công trình, khu dân cư để không ảnh hưởng tới đời sống của nhân dân trong vùng; kịp thời đề xuất, xử lý nhanh những phát sinh ngoài dự tính nếu có./.

Nguồn: Vinacomin.vn